Khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển nhằm triển khai đặc trưng lớn nhất của tiêu thụ hàng hoá dịch vụ là sản xuất ra để bán. Do đó khâu tiêu thụ sản phẩm là một trong những khâu cực kỳ quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Đây là cầu nối trung gian giữa khâu sản xuất và tiêu dùng. Quá trình tiêu thụ chỉ kết thúc khi quá trình thanh toán giữa người mua và người bán diễn ra nhằm chuyển quyền sở hữu hàng hoá. Dưới đây là đề tài “Một số giải pháp Marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại Công ty TNHH Thương mại và Vận tải Thiên Phúc” làm đề tài khóa luận.
Nội dung chính
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam chính thức hội nhập toàn diện với nền kinh tế thế giới. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Đó là cuộc cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, giành giật thị phần. Các đơn vị sản xuất kinh doanh muốn đứng vững và phát triển được trên thị trường cần phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, nhu cầu của khách hàng để xây dựng chiến lược kinh doanh cho phù hợp nhằm tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Bằng nhiều cách khác nhau, doanh nghiệp phải có những chiến lược kinh doanh đúng đắn và sáng tạo sao cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và thực tế của thị trường. Một trong những công cụ thường được sử dụng là Marketing. Vai trò của hoạt động Marketing ngày càng được khẳng định trong các hoạt động tác nghiệp của doanh nghiệp. Nó giúp cho các đơn vị định hướng hoạt động kinh doanh của mình. Từ việc nghiên cứu thị trường, nhu cầu thị trường để thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, tăng doanh thu và tối đa hoá lợi nhuận.
Marketing được coi là một trong những bí quyết tạo nên sự thành công của doanh nghiệp và là công cụ cạnh tranh có hiệu quả. Maketing giúp doanh nghiệp xác định được hàng loạt vấn đề đặt ra: Doanh nghiệp mình cần sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Đồng thời Marketing giúp doanh nghiệp xây dựng chiến lược cạnh tranh có hiệu quả nhằm khẳng định được uy tín của doanh nghiệp với khách hàng và thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu và phân tích Marketing ở doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty TNHH Thương mại và Vận tải Thiên Phúc, qua tìm hiểu hoạt động kinh doanh của công ty, vận dụng những kiến thức đã học được ở nhà trường, em chọn đề tài: “Một số giải pháp Marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại Công ty TNHH Thương mại và Vận tải Thiên Phúc” làm đề tài khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, kết cấu khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về tiêu thụ sản phẩm và hoạt động Marketing trong lĩnh vực vận tải đường biển.
Chương 2: Thực trạng hoạt động Marketing ở công ty TNHH Thương mại và Vận tải Thiên Phúc.
Chương 3: Một số giải pháp Marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm dịch vụ vận tải hàng hoá.
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN VỀ TIÊU THỤ VÀ SẢN PHẨM VÀ HOẠT ĐỘNG MARKETING TRONG LĨNH VỰC VẬN TẢI ĐƯỜNG BIỂN
1.1. Khái niệm và vai trò của tiêu thụ sản phẩm trong hoạt động của doanh nghiệp ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
1.1.1. Khái niệm
Theo quan điểm Marketing : tiêu thụ sản phẩm là quản trị hệ thống kinh tế và những điều kiện tổ chức có liên quan đến việc điều hành và vận chuyển hàng hoá, từ người sản xuất đến người tiêu dùng với điều kiện hiệu quả tối đa.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế: Tiêu thụ là giai đoạn cuối của quá trình sản xuất kinh doanh, thông qua tiêu thụ mà thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm.
Ngoài ra còn có rất nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động tiêu thụ sản phẩm dưới rất nhiều khía cạnh khác nhau.
Để đáp ứng nhu cầu khách hàng về sản phẩm, doanh nghiệp phải thực hiện rất nhiều nghiệp vụ sản xuất ở các khâu bao gồm: phân loại, lên nhãn hiệu bao bì, bao gói và chuẩn bị các lô hàng để xuất bán và vận chuyển theo yêu cầu của các khách hàng. Để thực hiện các nghiệp vụ này, các doanh nghiệp phải tổ chức lao động hợp lý ở nhiều công đoạn. Đặc biệt là lao động trực tiếp ở các kho hàng hoá và phân loại sản phẩm của doanh nghiệp.
Như vậy tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các giải pháp nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường. Nó bao gồm các hoạt động: tạo nguồn, chuẩn bị hàng hoá dịch vụ, tổ chức mạng lưới bán hàng, phân phối , xúc tiến bán hàng với nhiều hoạt động phụ trợ cho việc thực hiện sau bán hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tiêu thụ không đơn giản chỉ là quá trình chuyển quyền sở hữu hàng hoá đến khách hàng mà còn là một quá trình bao gồm nhiều công việc khác nhau từ việc nghiên cứu nhu cầu, tìm nguồn hàng, xúc tiến bán hàng… cho đến các dịch vụ sau bán như: chuyên chở, bảo hành, tư vấn kỹ thuật, lắp đặt…
1.1.2. Vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã làm cho thị trường thế giới trở thành một thị trường thống nhất và mang tính rủi ro cao. Vì thế, khâu tiêu thụ sản phẩm là khâu giữ vai trò quyết định. Nó cho biết thị phần của doanh nghiệp và khẳng định uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Vì thế các nhà quản trị doanh nghiệp ngày càng chú ý hơn đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Bởi đó vừa là cơ sở, vừa là điều kiện để doanh nghiệp có thể tồn tại trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Tiêu thụ sản phẩm đánh dấu thành quả hoạt động của toàn bộ doanh nghiệp. Để có thể tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp, phương châm của bất kỳ doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất nào cũng phải hướng tới khách hàng, coi khách hàng là trung tâm. Mục tiêu của công tác tiêu thụ là bán hết sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp với doanh thu tối đa và chi phí thấp nhất có thể. Do vậy, khác với quan niệm trước đây, hiện nay tiêu thụ không còn là khâu đi sau sản xuất, chỉ được thực hiện khi sản phẩm đã hoàn thành. Tiêu thụ hiện giờ phải chủ động đi trước một bước, được tiến hành trước quá trình sản xuất. Đó là triết lý kinh doanh được đúc kết qua thực tiễn. Với bất kỳ doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nào, từ sản xuất đến dịch vụ như: Bảo hiểm, Ngân hàng, Vận tải… khâu tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp là điều hết sức quan trọng. Nó quyết định rất lớn đến sự thành bại của doanh nghiệp.
Trước hết chúng ta thấy rằng: Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Qua tiêu thụ sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật hay dịch vụ sang hình thái tiền tệ và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Tiêu thụ hàng hoá dịch vụ để thu hồi vốn mới có thể tiếp tục tiến hành tái sản xuất mở rộng. Nếu tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng, hiệu quả thì sẽ làm tăng nhanh tốc độ chu chuyển của đồng vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Sau nữa, mục tiêu cuối cùng của tất cả các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều là lợi nhuận. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ thông qua quá trình tiêu thụ doanh nghiệp mới thu được vốn, chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phần lợi nhuận cho sự hoạt động lỗ lực của mình. Do đó, tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, là thước đo phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua tiêu thụ hàng hoá dịch vụ, tính chất sở hữu của sản phẩm mới được xác định một cách hoàn toàn. Nhờ vào quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được lưu thông trên thị trường và gây được sự chú ý của khách hàng về những tính năng sử dụng của nó. Việc khách hàng ưu tiên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp là một bước thành công lớn nó được đánh dấu bằng khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Đây cũng là hình thức quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp
Tiêu thụ là cầu nối trung gian giữa một bên là doanh nghiệp một bên là khách hàng. Nó chính là thước đo, là cơ sở đánh giá sự tin cậy và ưa thích của khách hàng đối với doanh nghiệp, với các sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp. Qua đó doanh nghiệp có thể gần gũi hơn với khách hàng, hiểu rõ và nắm bắt nhu cầu khách hàng để từ đó lựa chọn những phương thức sản xuất và tiêu thụ tối ưu nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng tốt hơn, đảm bảo sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn, làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2. Thị trường vận tải biển – Marketing trong lĩnh vực vận tải biển ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
1.2.1. Thị trường vận tải biển
- Khái quát vận tải biển
1.2.1.1 Vai trò của vận tải biển.
Vận tải là một quy trình kỹ thuật của bất cứ sự di chuyển vị trí nào của con người và vật phẩm. Ở phương diện kinh tế, vận tải chỉ bao gồm sự di chuyển vị trí của con người và vật phẩm thoả mãn đồng thời hai tính chất: là một hoạt động sản xuất vật chất và là một hoạt động kinh tế độc lập. Vận tải còn là một hoạt động kinh tế có mục đích của con người nhằm thay đổi vị trí của con người và hàng hoá từ nơi này sang nơi khác. Nhờ có vận tải, con người đã chinh phục được khoảng cách không gian và tạo ra khả năng sử dụng rộng rãi giá trị sử dụng của hàng hoá và thoả mãn nhu cầu đi lại của con người. Vận tải là yếu tố cần thiết đối với tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất. Vận tải không tách rời quá trình sản xuất của xã hội. Các xí nghiệp, nhà máy là những bộ phận thống nhất của hệ thống kinh tế quốc dân, chỉ có thể tiến hành sản xuất bình thường và thuận lợi trong điều kiện có sự liên hệ mật thiết với nhau thông qua quá trình sản xuất của ngành vận tải. Mối quan hệ giữa vận tải và các ngành kinh tế khác là rất chặt chẽ và có mối liên hệ mật thiết với nhau. Đó là mối quan hệ qua lại, tương hỗ nhau. Vận tải là điều kiện cần thiết của sản xuất và các mặt hoạt động khác của xã hội. Ngược lại, kinh tế phát triển lại tạo ra những tiền đề và đòi hỏi phát triển nhanh chóng ngành vận tải. Vận tải phục vụ tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội: sản xuất, lưu thông, tiêu dùng và an ninh quốc phòng…Trong đó quan trọng nhất là lĩnh vực lưu thông (nội địa và quốc tế). Vận tải đảm bảo chuyên chở nguyên vật liệu, bán thành phẩm từ nơi sản xuất này đến nơi sản xuất khác, đồng thời vận chuyển các thành phẩm công nghiệp, nông nghiệp.
1.2.1.2 Đặc điểm của vận tải biển.
Sản xuất trong vận tải là một quá trình tác động về mặt không gian, chứ không phải là tác động về mặt kỹ thuật vào đối tượng lao động. Trong vận tải, không có đối tượng lao động như các ngành sản xuất vật chất khác, mà chỉ có đối tượng chuyên chở gồm hàng hoá và khách hàng. Con người thông qua phương tiện vận tải (là tư liệu lao động) tác động vào đối tượng chuyên chở để gây ra sự thay đổi về vị trí không gian và thời gian của chúng. Sản xuất trong vận tải không sáng tạo ra sản phẩm vật chất mới mà sáng tạo ra một sản phẩm đặc biệt, gọi là sản phẩm vận tải. Sản phẩm vận tải là di chuyển vị trí của đối tượng chuyên chở. Bản chất và hiệu quả mong muốn của sản xuất vận tải là thay đổi vị trí chứ không phải làm thay đổi hình dáng, tính chất hoá lý của đối tượng chuyên chở.
Sản phẩm vận tải không có hình dáng, kích thước cụ thể, không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất ra nó. Sản phẩm vận tải không có khoảng cách về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Khi quá trình sản xuất vận tải kết thúc, thì sản phẩm vận tải cũng được tiêu dùng ngay.
Các ngành sản xuất vật chất khác có thể sản xuất ra một số lượng sản phẩm dự trữ để thoả mãn nhu cầu chuyên chở tăng lên đột xuất hoặc chuyên chở mùa, ngành vận tải phải dự trữ năng lực chuyên chở của công cụ vận tải. Tư cách là hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, vận tải không thể tách rời nhu cầu chuyên chở của nền kinh tế quốc dân. Nó góp phần sáng tạo ra một phần đáng kể tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
1.2.1.3 Vận tải biển. ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Diện tích của mặt biển chiếm 2/3 tổng diện tích của Trái đất. Từ lâu con người đã biết lợi dụng đại dương làm các tuyến đường giao thông để chuyên chở hành khách và hàng hoá giữa các nước với nhau. Vận tải biển xuất hiện từ rất sớm và phát triển nhanh chóng. Hiện nay, vận tải biển là một phương thức vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế. Vận tải đường biển có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu sau đây:
- Các tuyến đường biển hầu hết là những đường giao thông tự nhiên (trừ việc xây dựng các hải cảng và kênh đào quốc tế). Do đó, không đòi hỏi đầu tư nhiều về vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây dựng và bảo quản các tuyến đường biển. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho giá thành vận tải đường biển thấp hơn so với các phương thức vận tải khác. Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển rất lớn. Nói chung, năng lực chuyên chở của vận tải biển không bị hạn chế như các phương thức vận tải khác. Có thể nói, đây là ngành vận chuyển siêu trường, siêu trọng. Trọng tải của tàu biển là rất lớn. Trong những năm gần đây, trọng tải trung bình của tàu biển tăng nhanh và nó vẫn đang có xu hướng tăng lên đối với tất cả các nhóm tàu.
Vận tải đường biển đóng vai trò quan trọng như vậy trong thương mại vì nó có những ưu điểm nổi bật sau:
Vận tải đường biển có năng lực vận chuyển lớn: phương tiện trong vận tải đường biển là các tàu có sức chở rất lớn, lại có thể chạy nhiều tàu trong cùng một thời gian trên cùng một tuyến đường; thời gian tàu nằm chờ tại các cảng giảm nhờ sử dụng container và các phương tiện xếp dỡ hiện đại khác. Do đó, khả năng thông quan hàng hoá của một cảng biển là rất lớn, ví dụ cảng Rotterdam (Hà Lan): 300 triệu tấn hàng/năm; của cảng New York: 150 triệu tấn hàng/năm; cảng Kobe:136 triệu tấn hàng/năm.
Vận tải biển có thể đáp ứng cho việc vận chuyển hầu hết các loại hàng hoá trong thương mại nội địa và quốc tế. Đặc biệt, vận tải đường biển rất thích hợp và có hiệu quả cao trong việc chuyên chở các loại hàng hoá rời có khối lượng lớn và giá trị thấp như: than đá, quặng, ngũ cốc, phốt phát và dầu mỏ.
Chi phí đầu tư xây dựng các tuyến đường hàng hải thấp: các tuyến đường hàng hải hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên không đòi hỏi nhiều vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây dựng, duy trì, bảo quản, trừ việc xây dựng các cảng biển và các kênh đào quốc tế.
Giá thành vận tải đường biển rất thấp: Giá thành vận tải đường biển vào loại thấp nhất trong các phương tiện vận chuyển do trọng tải tàu biển cực lớn, cự ly vận chuyển trung bình lớn, biên chế ít nên năng suất lao động trong vận tải đường biển thường rất cao. Tiêu thụ nhiên liệu trên một tấn trọng tải thấp, chỉ cao hơn đường sông một ít. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật trong vận tải và thông tin được áp dụng, nên giá thành vận tải đường biển có xu hướng ngày càng hạ hơn.
Trên đây là một số các ưu điểm của vận tải hàng hoá bằng đường biển, tuy nhiên bên cạnh đó, vận tải biển vẫn còn có một số nhược điểm sau đây:
Vận tải đường biển phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, điều kiện hàng hải. Các tàu biển thường gặp rất nhiều rủi ro hàng hải như mắc cạn, đắm, đâm vào nhau, đâm va vào đá ngầm, mất tích…Theo thống kê của các công ty bảo hiểm, trung bình hàng tháng trên thế giới có khoảng 300 tàu biển bị các tai nạn trên biển, trong đó có nhiều trường hợp tổn thất toàn bộ cả về phương tiện, hàng hoá và con người.
Tốc độ của các loại tàu biển tương đối thấp. Tốc độ của các tàu biển chỉ khoảng 14-20 hải lý /giờ. Tốc độ này là thấp so với tốc độ máy bay, tàu hoả. Vận tải biển không thích hợp với chuyên chở các loại hàng hoá có yêu cầu giao hàng nhanh. Tuy nhiên, đối với các tàu chở hàng hoá, để đảm bảo hiệu quả cao, các chủ phương tiện phải tính toán, duy trì một tốc độ vận chuyển phù hợp nhằm làm giảm giá thành vận tải.
1.2.1.4 Vị trí vận tải biển ở Việt Nam ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, có 3260 km bờ biển có hàng chục cảng biển lớn nhỏ chạy dài từ Bắc xuống Nam. Bờ biển Việt Nam nằm trên tuyến đường hàng hải quốc tế chạy từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Cùng với
quá trình gia tăng hội nhập, mối quan hệ hợp tác kinh tế và buôn bán giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng mở rộng và phát triển. Do đó, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển vận tải đường biển. Vận tải đường biển của nước ta đang trên đà phát triển theo hướng hiện đại hoá. Đội tàu của Việt Nam chưa nhiều, nhưng vận tải đường biển đã đóng góp vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân phục vụ chuyên chở hàng hoá ngoại thương.
Giữa các cảng biển nước ta với các cảng biển chính của nhiều nước trên thế giới đã hình thành các luồng tàu thường xuyên và tàu chuyến. Trên các luồng tàu này, lực lượng tàu buôn của nước ta và tàu của nước ngoài cùng kinh doanh khai thác. Ngành vận tải đường biển đảm nhận chuyên chở trên 80% tổng khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu ở nước ta cũng như các nước trên thế giới. Vận tải đường biển là ngành chủ chốt so với các phương thức vận tải khác để có thể chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu.
1.2.1.5 Đội tàu buôn của Việt Nam
Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 2010 có 964 tàu chở hàng có trọng tải từ 200 DWT cho đến 60.000 DWT với tổng trọng tải khoảng 960.000 DWT, trong đó tàu có trọng tải 3.000 DWT trở lên chiếm khoảng 25%. Đội tàu buôn của Việt Nam do nhiều công ty, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác nhau (Nhà nước, Bộ, Ngành, địa phương, Liên doanh… ) kinh doanh và quản lý. Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) trực thuộc Bộ giao thông Vận tải quản lý phần lớn các công ty vận tải như: VOSCO, Vitranchart, Vinaship. Đội tàu buôn của Việt Nam hiện có số lượng ít, trọng tải nhỏ, tuổi già (bình quân khoảng trên 20 năm), chủng loại không thích hợp, không đủ sức cạnh tranh với các hãng tàu nước ngoài. Hiện tại, đội tàu buôn của Việt Nam mới chỉ đảm bảo vận chuyển được khoảng 16% tổng khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta.
Có thể bạn quan tâm:
1.2.1.6 Hệ thống Cảng biển:
Cảng biển là một nơi rất cần thiết là nơi neo đậu của tàu biển, là nơi phục vụ tàu bè qua lại, đầu mối giao thông quan trọng của một nước.
Cảng biển có hai chức năng:
- Phục vụ tàu biển: Cảng là nơi ra vào, neo đậu của tàu, là nơi cung cấp dịch vụ đưa đón tàu ra vào, lai dắt, cung ứng xăng dầu, nước ngọt, vệ sinh, sửa chữa tàu…
- Phục vụ hàng hoá: Cảng phải làm nhiệm vụ xếp dỡ, giao nhận, chuyển tải, bảo quản, lưu kho, tái chế, đóng gói phân phối hàng hoá xuất nhập khẩu. Cảng còn là nơi tiến hành các thủ tục xuất nhập khẩu, là nơi bắt đầu, hoặc kết thúc quá trình vận tải…
Cảng biển Việt Nam có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển của cảng biển trong phạm vi trách nhiệm.
- Phối hợp hoạt động của các tổ chức, cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước chuyên ngành tại cảng biển.
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các qui định của pháp luật về bảo đảm an toàn cảng và luồng ra vào cảng.
- Phối hợp các cơ quan thực hiện các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn hoặc xử lý ô nhiễm môi trường.
- Cấp giấy phép cho tàu ra vào cảng và thực hiện các yêu cầu về bắt giữ và tạm giữ hàng hải.
- Yêu cầu các cá nhân, cơ quan hữu quan cung cấp các thông tin, tài liệu để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của cảng.
Cảng biển có các loại: cảng thương mại, cảng quân sự, cảng cá. Cảng thương mại lại có cảng hoặc khu vực riêng như: cảng hàng lỏng hoặc cảng than, cảng dầu, cảng hoá chất, cảng container…
Hệ thống cảng biển của Việt Nam:
Việt Nam hiện nay có trên 60 cảng biển lớn nhỏ trực thuộc sự quản lý của nhiều ban ngành như: Giao thông vận tải, Thuỷ sản, Dầu khí, Quân đội, địa phương. Với tổng 11.000 km cầu cảng, hàng năm các cảng biển Việt Nam xếp dỡ khoảng 45 triệu tấn hàng hoá. Hệ thống cảng biển Việt Nam đảm nhận đến hơn 90% khối lượng hàng khô qua các cảng biển toàn quốc với nhịp độ tăng bình quân 12,5%/năm. Năng lực qua cảng trung bình 1.300-1.400 tấn/met bến. Ngành hàng hải đang có kế hoạch và mở rộng hệ thống cảng biển, xây dựng các cảng nước sâu, cảng chuyên dụng lớn và các cảng đầu mối quốc tế và khu vực, nhất là đối với Lào, Campuchia, Đông Bắc Thái Lan và miền nam Trung Quốc với mục tiêu đưa lượng hàng hoá qua hệ thống cảng biển lên 68 triệu tấn vào năm 2010. Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện nay chia thành 3 khu vực chính:
Khu vực phía Bắc (từ Quảng Nam đến Ninh Bình) ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Khu vực này gồm các cảng ở Quảng Ninh (Cẩm Phả, Cửa Ông, Hòn Gai, Cái Lân, cảng Xăng dầu B12); ở Hải Phòng (Hải Phòng, Thượng Lý, Hải Đăng…); ở Thái Bình (cảng Diêm Điền). Cảng Hải Phòng là cảng lớn nhất miền Bắc, có chiều dài cầu cảng là 2.567 mét, diện tích kho là 52.052 mét vuông, hàng năm có thể xếp dỡ 5-5,5 triệu tấn hàng hoá. Tuy nhiên, cảng có lượng sa bồi rất lớn nên chỉ nhận được tàu 6.000-7.000 DWT. Hiện tại, theo kế hoạch của Bộ Giao thông Vận tải, Cảng Hải Phòng sẽ được củng cố, hoàn thiện các trang thiết bị đồng bộ, đặc biệt là khu vực xếp dỡ Container, hàng chuyên dụng từng bước giải quyết dứt điểm, tăng độ sâu của luồng lạch để cho tàu 10.000 DWT có thể ra vào được, đưa năng lực thông quan của cảng tăng hơn mức hiện tại. Tại khu vực cảng Cái Lân-Quảng Ninh đã và đang xây dựng một thương cảng cho tàu 30.000 DWT ra vào được với các trang thiết bị hiện đại để xếp dỡ Container, hàng rời, hàng nặng, hình thành một cảng đầu mối Container của khu vực phía Bắc.
Khu vực miền Trung ( từ Thanh Hoá đến Bình Thuận ):
Khu vực này gồm các cảng Cửa Lò, Bến Thuỷ (Nghệ An), Xuân Hải ( Hà Tĩnh), Gianh (Quảng Bình), Thuận An (Thừa Thiên Huế), Tiên Sa, Sông Hàn (Đà Nẵng), Sa Kỳ (Quảng Ngãi), Nha Trang, Ba Ngói, Hòn Khói, Đầm Mơn (Khánh Hoà), Quy Nhơn, Thị Nại (Bình Định). Ở khu vực này sẽ xây dựng mới các cảng: Nghi Sơn (Thanh Hoá), Vũng Áng, Thạch Khê (Hà Tĩnh), Cửa Việt (Quảng Trị), Liên Chiểu, Chân Mây (Đà Nẵng), Dung Quất (Quảng Ngãi), Văn Phong (Khánh Hoà). Cảng Đà Nẵng gồm hai khu vực: Tiền Sa và Sông Hàn có 10 cầu bến với tổng chiều dài 1.116 mét, 6 kho có tổng diện tích 24.10 mét vuông. Các cảng quan trọng của khu vực này là: Cửa Lò, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Qui Nhơn, Nha Trang.
Khu vực phía Nam (từ Đồng Nai đến cực Nam):
Khu vực này gồm các nhóm cảng sau:
* Nhóm cảng Thành phố Hồ Chí Minh: Khu vực này hiện có khoảng 20 Cảng đang khai thác thuộc 15 đơn vị chủ quản, trong đó cảng lớn nhất là cảng Sài Gòn (Tổng công ty Hàng hải Việt Nam), Tân Cảng (Công ty Tân Cảng Quân đội), Bến Nghé (Tp.HCM) chiếm tới hơn 90% khối lượng hàng hoá thông qua trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có các cảng như: cảng Xăng dầu Nhà Bè (Petechim, B.P, Petro, EIF Gas), cảng Tân Thuận Đông, cảng Container quốc tế (Lotus)…
Cảng Sài Gòn do Pháp đầu tư xây dựng từ năm 1860 gồm ba khu vực xếp dỡ: Nhà Rồng, Khánh Hội, Tân Thuận. Hiện tại cảng có 15 cầu tàu với tổng chiều dài là 2.670 mét, 15 bến pháo, 27 kho với tổng diện tích là 75.000 mét vuông và 222.569 mét vuông bãi hàng. Cảng Sài Gòn có công suất vận chuyển 15 triệu tấn/năm (năm 2000 là 9,7 triệu tấn), có thể tiếp một lần 30 tàu với trọng tải lớn nhất là 30.000 DWT.
Tân Cảng có 1.200 mét cầu cảng, sản lượng khoảng 4,5 triệu tấn/năm, chủ yếu là hàng Container.
Bến Nghé là cảng Container hiện đại có 820 mét cầu cảng, với 5 bãi Container, có diện tích 8 ha, hàng năm có thể vận chuyển 2,3 triệu tấn hàng, trong đó gần 18.000 TEU.
- Nhóm cảng Vũng Tàu-Thị Vải: gồm các cảng Cát Lở, cảng Dịch vụ dầu khí, cảng Vietsopetro, cảng Gò Dầu A, cảng Phú Mỹ…
- Nhóm cảng thuộc đồng bằng sông Cửu Long bao gồm: cảng Cần Thơ, Mỹ Tho, Đồng Tháp,…trong đó cảng Cần Thơ đóng vai trò quan trọng hơn cả. Cảng Cần Thơ nằm trên vùng sông Hậu có vùng nước trước cảng rộng và sâu, có chiều dài cầu cảng là 144 mét, có khả năng tiếp nhận tàu trên 000 DWT.
Nhìn chung hệ thống cảng biển của Việt Nam chưa hoạt động hết công suất, quản lý phân tán nên hiệu quả chưa cao. Theo qui hoạch phát triển tổng thể của Bộ Giao thông Vận tải thì đến năm 2015 Việt Nam sẽ có 114 cảng biển, trong đó có 61 cảng biển tổng hợp, 52 cảng chuyên dụng, đảm bảo vận chuyển, xếp dỡ 190 triệu tấn hàng hoá.
- Thị trường vận tải biển
Thị trường vận tải biển được chia theo tàu chở hàng và tàu chở khách. Trong đó thị trường tàu chở hàng có thể chia thành hai loại là: thị trường tàu hàng khô (Dry Cargo Ship) và thị trường tàu chở lỏng (Tankers).
- Thị trường tàu hàng khô có thể chia thành các loại sau đây:
- Thị trường tàu chở hàng bách hoá ( General Cargo Ships ): là thị trường các loại hàng hoá đã qua chế biến, thường có bao bì và có giá trị
- Thị trường tàu chở hàng hoá có khối lượng lớn (Bulk Carrier ): Là các loại hàng hóa có khối lượng lớn, thường ở thể rắn và không có bao bì như: Than đá, quặng, ngũ cốc, bốc xít, phốt phát, phân bón…
- Thị trường Tàu chở hàng đông lạnh ( Reefer ): thường là các loại hàng hoá tươi sống cần được bảo quản ở nhiệt độ thấp như: rau quả, các mặt hàng thịt, thuỷ hải sản…
- Thị trường tàu chở lỏng được chia như sau:
- Thị trường tàu chở dầu ( Oil Tanker )
- Thị trường các loại tàu hàng lỏng khác như: tàu chở rượu, tàu chở hoá chất ở thể lỏng…
- Tàu chở hơi đốt thiên nhiên hoá lỏng ( Liquefied ); như gas…
Nhu cầu vận tải biển ở thị trường Việt Nam ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Thị trường vận tải biển được hình thành bởi cá nhân và tổ chức cung ứng dịch vụ và các cá nhân, tổ chức có nhu cầu vận chuyển hàng hoá. Khai thác sự thuận lợi về vị trí địa lý, và có một hệ thống cảng biển phong phú và đa dạng với hàng chục cảng lớn nhỏ và gần 10 khu vực chuyển tải.
Hệ thống cảng biển được xây dựng tại các trung tâm kinh tế như: Hải Phòng, Đà Nẵng, TP HCM và gần các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu khai thác, tạo thuận lợi cho quá trình vận chuyển hàng hoá, cung cấp nguyên vật liệu cho các nhà máy, xí nghiệp tạo ra một thị trường vận tải đường biển tiềm năng.
- Đặc điểm nhu cầu vận tải biển.
+ Cầu về hàng vận tải biển là nhu cầu gián tiếp, nó phụ thuộc vào quá trình sản xuất và mức tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Chẳng hạn nhu cầu vận chuyển clinke cho nhà máy xi măng Nghi Sơn nhiều hay ít phụ thuộc vào quá trình dự đoán mức tiêu thụ xi măng trong năm.
+ Nhu cầu về vận tải biển mang đặc tính mùa vụ. Tức là vào một thời gian nhất định trong năm, vận chuyển hàng hoá bằng đường biển sẽ rất lớn.
Ví dụ: Vào tháng 3 → tháng 6 các cơ sở sản xuất giấy có nhu cầu vận chuyển giấy cuộn là rất lớn để sản xuất giấy tập phục vụ cho học sinh – sinh viên vào kỳ học mới. Mùa khô nhu cầu vận chuyển than cũng rất lớn phục vụ cho các nhà máy xí nghiệp sản xuất.
Nhìn chung nhu cầu vận chuyển hàng hoá vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá cao đạt khoảng 12,5%. Nhưng với khối lượng hàng hoá vận chuyển trong năm qua thì thị trường vận tải đường biển mới chỉ khai thác được trên 50,9% khối lượng hàng hoá cần chuyên chở.
Trong khi đó, thị trường tiềm năng được đánh giá có nhu cầu chuyên chở rất lớn khoảng 80% khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta.
Đặc điểm cung ứng và tiêu dùng dịch vụ vận tải biển
Dịch vụ vận tải hàng hoá ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá. Quá trình sản xuất hàng hoá có thể được phác hoạ như sau:
Sản xuất → phân phối → người tiêu dùng.
Vận tải hàng hoá ra đời để đảm bảo cho quá trình phân phối hàng hoá từ người sản xuất tới người tiêu dùng. Ở đây quá trình cung cấp dịch vụ vận tải hàng hoá bằng đường biển không chỉ đơn thuần là từ cảng → cảng mà có thể bao gồm từ kho → cảng đi → cảng đến → kho và các dịch vụ kèm theo như thủ tục hải quan, kiểm định… Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng mà Công ty có thể cung cấp các dịch vụ khác nhau có thể từ kho→cảng→kho hoặc cảng đi→ cảng đến→ kho…
Như vậy sẽ có nhiều trung gian tham gia vào thị trường dịch vụ vận tải biển làm cho quá trình cung cấp dịch vụ vận tải được chặt chẽ và thông suốt. Mỗi trung gian tạo ra một giá trị trong chuỗi giá trị mà dịch vụ vận tải biển sẽ đem lại cho
khách hàng. Vì vậy, khi các giá trị thành phần đem lại không như mong đợi sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và tác động xấu đến thị trường vận tải biển.
- Tình hình cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Cạnh tranh giữa các loại hình vận tải (cạnh tranh ngoài ngành)
Cạnh tranh ngoài ngành là sự cạnh tranh giữa các loại hình vận tải khác nhau bao gồm: Đường bộ, Đường biển, Đường sắt, Đường hàng không.
Trong việc đánh giá tính cạnh tranh giữa các loại hình vận tải ở nước ta hiện nay thì sự cạnh tranh của đường hàng không còn rất yếu, chỉ chiếm một thị trường rất nhỏ (khoảng 0,2%) trong thị trường vận tải hàng hoá Việt Nam. Việc lựa chọn phương tiện vận tải cho một loại hàng hoá cụ thể nào đó, người mua sẽ quyết định lựa chọn phương tiện dịch vụ dựa trên những đặc tính của mỗi loại phương tiện vận tải mang lại. Nếu người dùng dịch vụ cần tốc độ vận chuyển thì đường hàng không sẽ xếp hàng đầu, tiếp theo là đường bộ. Nếu mục tiêu của khách hàng là hạ thấp chi phí thì đường biển, đường sông là tốt nhất…Như vậy, trong việc lựa chọn phương tiện vận chuyển hàng hoá nội địa khách hàng thường xét tới 6 tiêu chuẩn dịch vụ sau:
Tuy nhiên trong vận chuyển người mua ngày càng tìm cách kết hợp các loại hình vận tải khác nhau nhằm tìm kiếm cơ hội tốt nhất. Phương tiện chuyên dùng trong các hình thức kết hợp là sử dụng container để dễ dàng vận chuyển hàng hoá từ phương tiện vận tải này sang phương tiện vận tải khác. Mỗi cách kết hợp này sẽ làm tăng lợi nhuận cho chủ hàng.
Việc lựa chọn phương tiện vận chuyển đều là sự cân nhắc kỹ lưỡng bởi các mối quan hệ về chi phí. Sự thuận tiện (nơi giao dịch, điểm đến của hàng hoá, bến bãi, kho) và các yếu tố về mặt thời gian…
Vậy đối với mỗi loại hình vận tải cần phải khai thác hết thế mạnh và tiềm năng của chúng. Dưới đây là phân tích về khả năng cạnh tranh của các loại hình vận chuyển về vai trò và chức năng.Tóm lại, sự cạnh tranh giữa các phương tiện vận tải khác nhau ngày càng trở lên quyết liệt. Người mua dịch vụ vận tải nắm rất vững về thông tin thị trường. Vì thế, các doanh nghiệp tham gia vào thị trường vận tải biển phải có chính sách ưu đãi, khuyếch trương tạo niềm tin cho khách hàng.
1.2.1.7 Cạnh tranh giữa các Công ty trong ngành
Thị trường vận tải biển có rất nhiều các Công ty cùng tham gia vào quá trình cũng cấp dịch vụ vận chuyển hàng hoá cho khách hàng đó.
Các Công ty chuyên cung cấp dịch vụ vận tải biển lớn phải nói đến như: Công ty vận tải dầu khí Việt Nam (FALCON)
Công ty vận tải biển Việt Nam (VOSCO) Công ty vận tải biển IV (VINASHIP)
Công ty vận tải và thuê tàu (VITRANSCHART) Các Công ty vận tải biển vừa và nhỏ như:
Công ty vận tải Thuỷ Bắc
Công ty vận tải hàng hoá Hiệp Sĩ Công ty vận tải biển Đông
Công ty vận tải biển Thăng Long
Công ty TNHH Thương mại và Vận tải Thiên Phúc Công ty TNHH giao nhận Long An…
Giữa các công ty này cũng luôn có sự cạnh tranh nhưng đó là sự cạnh tranh lành mạnh, tính chất cạnh tranh ở mức độ thấp. Đối thủ cạnh tranh chính của họ đó là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận tải biển của nước ngoài và các hãng liên doanh. Phương thức cạnh tranh chủ yếu giữa các doanh nghiệp trong ngành vận tải biển chủ yếu là giá cả, chất lượng dịch vụ và các dịch vụ kèm theo. Song yếu tố chi phối mạnh nhất vẫn là giá cả. Thường thì không có mức giá cố định cho khách hàng mà giá cả luôn biến động trong phạm vi nào đó. Còn các yếu tố khác thì các doanh nghiệp luôn cố gắng để cung cấp cho khách hàng chuỗi giá trị là lớn nhất.
1.2.2 Những đặc trưng của Marketing trong lĩnh vực vận tải biển ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Kinh doanh vận tải biển là một ngành kinh doanh dịch vụ, vì thế nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của các lý thuyết Marketing đặc biệt là các lý thuyết cho ngành dịch vụ. Nó khác với các ngành sản xuất vật chất khác đó là sản phẩm của nó có tính phi hiện hữu vì ta không thể nhìn thấy được sản phẩm dịch vụ. Bên cạnh đó nó còn là một sản phẩm mang tính không tách rời, việc cung ứng cũng như việc tiêu dùng của sản phẩm phải diễn ra đồng thời. Vận tải biển là một sản phẩm dịch vụ vì một lý do hết sức cơ bản đó là nó mang tính phi đồng nhất, không thể có sự giống nhau y hệt khi hai hay nhiều doanh nghiệp cùng cung cấp dịch vụ vận tải được. Đó là đặc trưng của sản phẩm dịch vụ…
Kinh doanh vận tải biển hiện nay có thể nói là một ngành kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhất là khi Việt Nam tham gia vào WTO. Nó mở ra những cơ hội và thách thức mới khi chúng ta tham gia vào giao thương quốc tế. Khi đó, nhu cầu vận tải hàng hoá trở nên hết sức bức xúc, đặc biệt là những phương thức vận tải tiên tiến với chi phí thấp có thể. Do đó, vận tải biển còn chịu sự chi phối của lý thuyết Marketing quốc tế.
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của Marketing về kinh doanh dịch vụ vận tải biển.
- Những đặc trưng của Markeing dịch vụ
Những đặc điểm của ngành dịch vụ vận tải biển chính là nguyên nhân dẫn tới các hàm ý Marketing của chúng, nguyên nhân dẫn tới các đặc trưng.
1.2.2.1 Dịch vụ vận tải biển có tính vô hình:
Dịch vụ vận tải biển không giống như các sản phẩm vật chất khác vì chúng không thể trông thấy, không thể ngửi nếm được hay như không cảm thấy được. Người sử dụng dịch vụ vận tải không thể hình dung ra quá trình vận
tải như thế nào trước khi sử dụng dịch vụ của nhà cung cấp, nó không giống như việc chúng ta mua một chiếc TV, vì ta có thể nhìn thấy được nó, từng sờ hay như đã chạm tay vào nó. Do đó, từ hình thức chiếc TV, họ có thể so sánh hay đưa ra một cách đánh giá, từ đó họ sẽ cảm thấy an tâm hơn. Vì thế, để gia tăng sự tin tưởng, tạo niềm tin cho khách hàng, người cung ứng dịch vụ vận tải biển sẽ tìm cách gia tăng độ tin cậy. Thêm vào đó những dấu hiệu về chất lượng của dịch vụ vận tải thông qua hàng loạt các dấu hiệu hữu hình sau: từ địa điểm, con người của Công ty, cơ sở vật chất kỹ thuật, cung cấp các tài liệu thông tin, biểu tượng về đội tàu hay như giá cả…hàng loạt các dấu hiệu hữu hình trên sẽ giúp khách hàng có một hình dung tốt hơn, qua đó thấy tin tưởng hơn vào quá trình cung ứng dịch vụ của Công ty. Vì vậy nhiệm vụ của người quản trị Marketing đó là cần phải bổ xung càng nhiều càng tốt các yếu tố hình ảnh hữu hình vào sản phẩm của mình như một hành động “chứng minh”. Nó đi ngược lại tư duy của các nhà quản trị sản phẩm vật chất khi họ càng mong muốn bổ sung những đặc điểm trừu tượng, những yếu tố cảm xúc. Công ty đang theo đuổi hình ảnh cung cấp những dịch vụ “an toàn và đúng giờ”
Những yếu tố hữu hình có thể bổ sung thêm các yếu tố sau đây: ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Khung cảnh của Công ty: Phải tạo cảm giác tin cậy cho khách hàng thông qua những bằng khen, hàng loạt các múi giờ của các nước trên thế giới. Ngoài ra cũng cần thêm những trang thiết bị, văn phòng phẩm đẹp bắt mắt nhằm giúp cho cảm giác tin tưởng hơn từ phái khách hàng.
Con người: Con người trong Công ty cần phải được rèn luyện một tác phong nhanh nhẹn, luôn lắng nghe ý kiến khách hàng, tác phong hết sức cẩn thận trong từng lời ăn tiếng nói nhằm tạo cho khách hàng có cảm nhận hàng hoá của mình được giao cho những người đáng tin cậy.
Hoạt động đền bù thiệt hại: Công ty có thể cam kết bồi thường cho bất kể một sai phạm nào từ phía Công ty trong quá trình vận chuyển hàng hoá dù
là nhỏ nhất. Danh mục đền bù do làm chậm quá trình vận chuyển có thể tính theo từng phút…Tất cả để cho khách hàng thấy đựợc tinh thần trách nhiệm của Công ty.
Hệ thống thông tin của Công ty: Cần phải liên tục, thông báo cập nhật thông tin của tàu cho các chủ các hàng hoá gửi trên tàu. Giúp khách hàng an tâm hơn về hàng hoá của mình…
1.2.2.2 Dịch vụ vận tải biển có tính không tách rời:
Quá trình cung ứng dịch vụ vận tải biển cũng đồng thời với quá trình tiêu dùng dịch vụ này. Điều này không đúng với hàng hoá vật chất thông thường vì hai hoạt động này hoàn toàn tách biệt do hàng hoá hoàn toàn có thể lưu kho được nhưng hàng hoá dịch vụ vận tải thì không. Do đó, sự tham gia của cả người cung ứng cũng như khách hàng có liên quan trực tiếp tới sự thành công của dịch vụ vận tải.
1.2.2.3 Dịch vụ vận tải biển có tính không ổn định:
Thông thường các dịch vụ thường có tính không ổn định, vận tải biển cũng không nằm ngoài qui luật này của ngành dịch vụ. Dịch vụ vận tải biển phụ thuộc rất nhiều vào nhà cung cấp dịch vụ, thời gian, và địa điểm thực hiện dịch vụ đó. Nó khác với việc kinh doanh hàng hoá thông thường vì sản phẩm vật chất thường có độ ổn định cao, đồng nhất. Do đó, để có được độ ổn định lớn thì người cung ứng dịch vụ vận tải cần phải tiêu chuẩn hoá một số các bước sau như:
Đối với dịch vụ vận tải biển, bước thứ nhất cần phải tiến hành việc tuyển chọn gắt gao đội ngũ cán bộ, thuyền viên. Cần phải đào tạo tốt nhằm tạo độ ổn định cao trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Các cán bộ nhân viên trên bờ cần phải thông hiểu các công việc nhiệm vụ của các thuyền viên từ đó có thể giải đáp một cách tốt nhất những thắc mắc của khách hàng một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó hiểu những công việc phát sinh trong quá trình vận tải sẽ
giúp cho các cán bộ chăm sóc khách hàng có thể kịp thời đáp ứng ngay cả khi khách hàng vẫn chưa thể lường hết được.
Thứ hai, cần phải có một tiêu chuẩn hoá quá trình cung cấp dịch vụ vận tải trong phạm vi toàn bộ tổ chức. Điều này có nghĩa phải có một bản qui trình vận tải một cách chi tiết nhất những công việc cần phải làm, tất cả phải được thể hiện trên một tấm bản đồ từ đó có thể thấy được điểm chưa hợp lý cũng như các thiếu sót có thể gây khó khăn cho sự cảm nhận về một dịch vụ tốt cho khách hàng…
Thứ ba, cần phải theo dõi mức độ hài lòng của khách hàng thông qua các hoạt động của hệ thống thăm dò ý kiến của khách hàng, từ đây có thể thấy được điểm chưa tốt để kịp thời đưa ra các điều chỉnh.
1.2.2.4 Vận tải biển có tính không lưu giữ được: ( khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải biển )
Vận tải biển cũng như các dịch vụ khác nó không thể lưu giữ được, nó không giống như hàng hoá vật chất, việc lưu kho chờ tới mùa vụ đã trở thành một tất yếu, tuy nhiên điều này lại không thể đúng cho các ngành dịch vụ nói chung cũng như vận tải biển nói riêng. Do đó, khi nhu cầu tăng cao, công ty sẽ gặp rất nhiều khó khăn về nguồn lực trong việc đáp ứng nhu cầu tăng cao, cũng như phải chống chọi khi không vào thời điểm mùa vụ. Vì thế điều cần phải làm đó là chiến lược làm cân đối cung và cầu tại mọi thời điểm như:
- Để thúc đẩy khách hàng sử dụng dịch vụ vào thời điểm vắng khách bằng cách giảm giá cho khách hàng vào các thời điểm ít khách, điều này sẽ làm cho khách hàng chuyển bớt nhu cầu vào những lúc cao điểm chuyển dần sang lúc thấp điểm.
- Tổ chức các hình thức dịch vụ bổ sung cho các khách hàng mà chưa được đáp ứng có thêm nhiều sự lựa chọn như: giảm phí lưu bãi cho các khách hàng trong khi họ phải chờ cho chuyến tiếp theo, có thể giảm giá cho họ nếu như họ quyết định chờ chuyến kế.
- Về phía công ty, có thể có các hình thức liên kết thêm các đội tàu của công ty khác vào những lúc cao điểm…
Cho đến thời điểm này, các công ty hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ vẫn bị tụt hậu so với các công ty sản xuất trong việc sử dụng các công cụ Marketing. Ngành vận tải biển cũng không nằm ngoài tình trạng trên, một phần do hiện nay, cầu về phương thức vận tải biển quá lớn, do đó các công ty trong ngành thậm chí cảm thấy không cần thiết phải tiến hành các hoạt động Marketing mà vẫn có khách hàng.
Ngoài ra, mô hình Marketing truyền thống khó phát huy trong môi trường kinh doanh sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ vận tải biển. Bởi một điều đơn giản, với sản phẩm vật chất thông thường, khách hàng chỉ chịu tác động của rất ít các kích thích. Sản phẩm vật chất chỉ cần thông qua một số các cơ quan cảm giác như xúc giác, vị giác, khứu giác…là có thể cảm nhận về chất lượng của sản phẩm. Nhưng không thể cảm nhận chất lượng của dịch vụ chỉ qua cơ quan cảm giác do sản phẩm dịch vụ là không hiện hữu. Vì thế khách hàng thường phải thông qua một số dấu hiệu có thể nhìn thấy nhằm cảm nhận phần nào chất lượng của dịch vụ như: nhân viên cung ứng dịch vụ, cách bày trí cửa hàng cũng như cảnh quan xung quanh cửa hàng…Do đó, không thể chỉ áp dụng mô hình 4Ps truyền thống vào kinh doanh trong ngành dịch vụ được.
Ngoài ra, với sản phẩm vật chất, chất lượng của sản phẩm hoàn toàn do chủ quan của khách hàng cảm nhận. Nhưng với sản phẩm dịch vụ thì không hoàn toàn đúng, nó cũng chịu sự chi phối của quá trình cung ứng dịch vụ, nó phụ thuộc vào kỹ năng thái độ của nhân viên cung ứng dịch vụ đối với khách hàng. Vì thế hoạt động Marketing của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là đối với khách hàng (Marketing đối ngoại) mà còn là sự động viên khích lệ đối với từng nhân viên của mình để họ có thể phục vụ tốt nhất mọi đòi hỏi của khách hàng (Marketing đối nội).
Do sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ ngày càng quyết liệt hơn, ngày càng trở nên phức tạp hơn trong chiến lược Marketing.
Như thế, với công ty cung ứng dịch vụ vận tải biển, ngoài mô hình 4Ps kinh điển còn cần phải tạo sự khác biệt thông qua một số công cụ (3Ps)mà chỉ có ngành dịch vụ mới có, đó là:
- Thứ nhất, có thể tạo khác biệt về hình ảnh của mình thông qua đội ngũ cán bộ, nhân viên và thuyền viên của mình giỏi hơn tận tình hơn đối với khách hàng.
- Thứ hai, có thể tạo khác biệt thông qua môi trường, cảnh quan của Công ty thông qua kiến trúc trụ sở, qua cách bày trí cũng như hoạ hình chi tiết có liên quan tới biển như: bể cá kiểng, sơn tường màu xanh nước biển, các bức tranh biển…
- Thứ ba, có thể cung cấp một qui trình dịch vụ tốt hơn, khoa học hơn…
- Những đặc trưng của Marketing cho dịch vụ vận tải biển
Khi Công ty hoạt động tại nhiều thị trường, nhất thiết công ty phải quyết định một tổ hợp chiến lược Marketing của mình trong điều kiện các thị trường khác nhau. Công ty có thể lựa chọn một chiến lược Marketing chung cho thị trường toàn cầu với những hy vọng là chi phí thấp nhất nhưng cũng sẽ cho số lượng khách hàng thấp tại từng thị trường. Một chiến lược đối nghịch đó là thực hiện một chiến lược Marketing-mix thích nghi với từng thị trường khác nhau. Như vậy Công ty sẽ phải chịu những chi phí cao hơn nhưng với hy vọng sẽ thu được thị phần cao hơn tại mỗi thị trường mà công ty quan tâm từ đó sẽ thu được lợi nhuận theo qui mô. Giữa hai chiến lược trên cũng có rất nhiều kiểu chiến lược là sự pha trộn giữa hai thái cực này. ( khóa luận đề tài tiêu thụ sản phẩm và marketing vận tải đường biển )
Đối với sản phẩm dịch vụ:
– Có thể là không có sự thay đổi gì về sản phẩm – dịch vụ cho tất cả các thị trường.
- Có thể là chiến lược thích nghi với từng thị trường bằng việc thay đổi một số ít các yếu tố cấu thành của dịch vụ sao cho thích hợp với nhu cầu của thị trường nước sở tại.
- Có thể là một sản phẩm hoàn toàn mới.
Đối với công cụ giá:
- Có thể định giá tại khắp mọi nơi đến: Mặt tiêu cực đó là giá của sản phẩm sẽ rất cao tại những nước nghèo và ngược lại tại những nước giàu.
- Định giá theo thị trường từng vùng từng nước.
- Định giá căn cứ vào chi phí tại từng vùng, từng nước: nó có thể làm cho giá thành của sản phẩm cao tại những vùng, những nước có chi phí cao…
Đối với công cụ kênh phân phối:
Cần phải nghiên cứu kỹ tập quán tiêu dùng tại các nước, ví như tại các nước đang phát triển như nước ta thì việc phân phối thông qua các nhà bán lẻ, các chợ đầu mối là chủ yếu với tập quán mặc cả, không thích hợp cho việc phân phối tại các siêu thị như các nước.
Đối với công cụ xúc tiến:
– Có thể triển khai những chiến dịch quảng cáo và khuyến mãi đã từng thành công cho thị trường nội địa.
– Có thể thay đổi chút ít sao cho phù hợp với văn hoá nhu cầu tại từng nước.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Khóa luận thực trạng hoạt động Marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải đường biển

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → khóa luận hoạt động marketing tiêu thụ sản phẩm vận tải đường biển […]