Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng việc áp dụng marketing điểm đến cho du lịch Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Nội dung chính

2.1. Giới thiệu tổng quan về thủ đô Hà Nội

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển

Cách đây hơn 1000 năm, đức vua Lý Thái Tổ trong công cuộc đi tìm mảnh đất “địa linh nhân kiệt” để thực hiện ý chí “muốn đóng đô ở trung tâm mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”, khi đi qua thành Đại La đã nhận ra mảnh đất này “ở trung tâm cõi bờ đất nước, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, vị trí ở giữa bốn phương nam, bắc, đông, tây, tiện hình thể núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất phong phú và tốt tươi. Xem khắp đất Đại Việt chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương”. (Chiếu dời đô – Lý Công Uẩn)

Và mùa thu năm 1010, nước Đại Việt của triều Lý đã định đô nơi mảnh đất từ bờ con sông Hồng, khi đoàn thuyền ngự cập bến, Lý Thái Tổ đã thấy hiển hiện trong trí tưởng tượng của mình một con rồng huyền thoại vươn mình bay lên. Ngài bèn đặt tên cho kinh đô của quốc gia Đại Việt là “Thăng Long” như đặt niềm tin tưởng vào một thời đại mới của nước nhà từ đây sẽ lớn mạnh hùng cường. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Kể từ đó trải dài tám thế kỷ liên tục, Thăng Long dù có lúc mang tên khác như Đông Đô (thời Hồ), Đông Quan (thời giặc Minh tạm chiếm) hay Đông Kinh (thời Hậu Lê)… nhưng vẫn vững chãi là kinh đô của nước Đại Việt.

Đầu thế kỷ thứ XVIII, nhà Nguyễn lập triều (1802), Gia Long cho dời đô vào Huế, Minh Mạng đổi tên Thăng Long thành Hà Nội (1831), thành quách bị hạ thấp, vua chúa quan lại bỏ đi… nhưng như nhận xét của một người nước ngoài viết vào cuối thế kỷ XIX: “vua chúa không còn nhưng Hà Nội vẫn là thành phố đứng đầu vương quốc về nghệ thuật, công nghiệp, thương mại và sự giàu có, về số dân đông đúc, về sự lịch duyệt và học vấn… Hà Nội vẫn là trái tim của đất nước này” (Sylvestre – Vương quốc An Nam, Paris 1889).

Mùa thu năm 1945, cuộc Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Từ chiến khu Việt Bắc, Đại hội Quốc dân Tân Trào được triệu tập thể hiện ý chí của toàn thể dân tộc Việt Nam đã quyết định lấy Hà Nội làm Thủ đô của đất nước. Và ngày 2-9-1945 giữa lòng Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra Nhà nước Dân chủ Cộng hòa. Kể từ đó đến nay, Hà Nội trở thành Thủ đô – Trung tâm văn hóa, chính trị đầu não của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Marketing

2.1.2. Đặc điểm địa lý – dân số Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Nằm chếch về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Thủ đô Hà Nội nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn. Hà Nội có vị trí từ 20°53′ đến 21°23′ vĩ độ Bắc và 105°44′ đến 106°02′ kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km (Đơn vị hành chính: Thành phố Hà Nội – Tổng cục du lịch Việt Nam – 2013)..

Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh núi cao như Ba Vì (1.281 m), Gia Dê (707 m), Chân Chim (462 m), Thanh Lanh (427 m), Thiên Trù (378 m)… Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng (Tổng cục du lịch Việt Nam – 2013)

Sau bốn lần điều chỉnh địa giới hành chính từ năm 1954 đến nay, Hà Nội trở thành đô thị có diện tích lớn nhất cả nước, và là một trong 17 thủ đô có quy mô lớn trên thế giới, với diện tích 3.344km2 và dân số 7,3 triệu dân (Tổng cục thống kê – 2013).

2.1.3. Đặc điểm về khí hậu

Bảng 2.1. Khí Hậu Hà Nội từ năm 1898 – 2011

Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu cận nhiệt đới ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa về đầu mùa và có mưa phùn về nửa cuối mùa. Nằm về phía bắc của vành đai nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ mặt trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Nằm cách biển không xa và chịu nhiều tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn, trung bình ngày mưa một năm. Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 28,1 °C. Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là mùa đông với nhiệt độ trung bình 18,6 °C. Trong khoảng thời gian này số ngày nắng của thành phố xuống rất thấp, bầu trời thường xuyên bị che phủ bởi mây và sương, tháng 2 trung bình mỗi ngày chỉ có 1,8 giờ mặt trời chiếu sáng. Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 (mùa xuân) và tháng 10 (mùa thu), thành phố có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu và đông. Sự chuyển biến lớn về thời tiết của Hà Nội trong các mùa cũng là một trong những đặc điểm khiến Hà Nội trở nên cuốn hút.

2.2. Tổng quan các sản phẩm du lịch của Hà Nội Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Hà Nội – Thủ đô ngàn năm văn hiến của Việt Nam, sở hữu một bề dày lịch sử và văn hóa. Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, cho tới nay, Hà Nội mang trong mình sự hòa trộn của những nét đẹp cổ kính và hiện đại với những sản phẩm du lịch phong phú và đa dạng.

2.2.1. Địa điểm du lịch tại Hà Nội

2.2.1.1. Di tích lịch sử – văn hóa

Hà Nội vốn nổi tiếng với vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc như bằng chứng phong sương của thời gian qua 1000 năm phát triển. Mặc dù, chịu tác động không nhỏ bởi quá trình phát triển, những di tích lịch sử, văn hóa, vẫn luôn là những minh chứng rõ nét cho sự trường tồn mạnh mẽ của những giá trị nhân văn cốt lõi của Hà Nội. Hà Nội sở hữu 5.175 di tích chiếm gần 15% tổng số di tích của Việt Nam, trong đó có 2.209 di tích được xếp hạng di tích quốc gia chiếm hơn 42,65% trên tổng số (số liệu Sở văn hóa thể thao và du lịch Hà Nội – 2013).

Có thể kể đến những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu của Hà Nội như:

Chùa Một Cột: Điểm nhấn của phật giáo Hà Nội với kiến trúc đặc sắc được thiết kế như đài sen giữa hồ, được nhiều chuyên gia đánh giá là vô cùng độc đáo. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám: là nơi thờ Khổng Tử, đặt bia tiến sĩ và cũng là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. 82 tấm bia tiến sĩ được đặt tại đây đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới ngày 09/03/2010.

Nhà thờ lớn Hà Nội: Nhà thờ Lớn Hà Nội (tên chính thức: Nhà thờ chính tòa Thánh Giuse) là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Hà Nội, nơi có ngai tòa của tổng Giám mục. Đây là một trong những công trình kiến trúc cổ tiêu biểu của Hà Nội.

Ngoài ra có thể kể đến rất nhiều ngôi đền, chùa nổi tiếng khác tại Hà Nội như:

  • Chùa Hoè Nhai, chùa Láng, chùa Liên Phái, chùa Quán Sứ, chùa Trấn Quốc, đền Ngọc
  • Sơn, đền Voi Phục, đền Quán Thánh, đình Bát Tràng, đình Kim Liên, chùa Tĩnh Lâu, phủ Tây Hồ, đền Bạch Mã, chùa Hương.
  • Các di tích văn hóa như: Khu phố cổ Hà Nội, Ô Quan Chưởng, Thăng long tứ trấn, Hoàng thành Thăng Long.

Cùng các di tích lịch sử khác: Quảng trường Ba Đình – Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hỏa Lò, nhà 48 Hàng Ngang (nơi Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam), nhà 5D Hàm Long (nơi thành lập chi bộ đảng Cộng sản đầu tiên), Thành cổ Hà Nội, Thành Cổ Loa, Tượng đài chiến thắng B52… nơi ghi dấu những giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Hà Nội nói riêng.

2.2.1.2. Danh thắng thiên nhiên Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Không sở hữu những bãi biển dài thơ mộng hay những dãy núi, cao nguyên hùng vĩ, nhưng Hà Nội cũng sở hữu những cảnh đẹp tự nhiên không thua kém gì so với các địa điểm du lịch khác trên cả nước.

Hồ Hoàn Kiếm (hay còn gọi là Hồ Gươm) cùng với Tháp Rùa, cầu Thê Húc đã trở thành một biểu tượng của Hà Nội, với truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả gươm cho rùa thần trên hồ, đã thu hút được đông đảo sự quan tâm của khách du lịch trong và ngoài nước.

Hồ Tây hay còn gọi là hồ Mù Sương (Dâm Ðàm), hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ), đầm Xác Cáo. Mỗi tên lưu giữa một sự tích về nguồn cội của Hồ Tây huyền thoại.

Bên cạnh hai địa điểm nổi tiếng kể trên, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống gần 80 hồ lớn nhỏ trên toàn địa bàn nội thành và ngoại thành thành phố, đây cũng là một trong những đặc điểm thú vị của cảnh quan Hà Nội, góp phần vào thu hút khách du lịch.

Sau ngày 01/08/2008, thành phố Hà Tây cũ được sáp nhập vào Hà Nội, đóng góp cho du lịch Hà Nội thêm nhiều điểm đến hấp dẫn trong đó chủ yếu là những thắng cảnh thiên nhiên vẫn còn giữ được phần nào nét mộc mạc, hoang sơ của vùng ngoại ô như: Vườn quốc gia Ba Vì, Ao Vua, Khoang Xanh, Suối Hai, Đồng Mô, Thiên Sơn – Suối Ngà (Suối Ổi), Suối Ngọc – Vua Bà, Bằng Tạ, Đầm Long, Quan Sơn, Đồng Xương, Văn Sơn… mỗi cảnh quan đều chứa đựng những nét đặc sắc, những câu chuyện, truyền thuyết riêng, vừa khơi gợi sự tò mò khám phá của khách du lịch về lịch sử mỗi vùng đất, vừa đem đến cho họ cảm giác mới mẻ, thích thú khi được gần gũi với thiên nhiên. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Tuy nhiên, trái với sự ưu ái của thiên nhiên, chính con người lại đang có những hành động xâm hại làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới cảnh quan và môi trường của những danh thắng du lịch nổi tiếng này. Có một thực trạng đau lòng mà những người sinh sống ở Hà Nội dường như đã quá quen thuộc, đó là sự xuất hiện một cách vô tổ chức, tràn lan của rác. Theo viện Khoa học môi trường và phát triển (VESDEC), hiện nay tất cả các sông hồ trên địa bàn thành phố Hà Nội đều ở trong tình trạng ô nhiễm, với những chỉ tiêu chất thải vượt cao hơn nhiều so với mức quy định. Điều này là một sự thật đáng buồn, nếu các cơ quan chức năng không có những hành động cụ thể, nếu người dân không thay đổi ý thức của mình, thì không chỉ môi trường thiên nhiên bị hủy hoại, mà nó sẽ hủy hoại cả hình ảnh của Hà Nội trong mắt khách trong nước và bạn bè quốc tế, tác động tiêu cực đến du lịch, đơn giản rằng, không có khách du lịch nào có hứng thú với một nơi có hình ảnh gắn liền với rác thải và ô nhiễm.

2.2.1.3. Các điểm đến khác

Bên cạnh các di sản lịch sử, thiên nhiên, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống gần 20 bảo tàng, như Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh, …Trong đó có 2 bảo tàng lọt vào top 25 bảo tàng hấp dẫn nhất châu do sự kiện chuyên trang du lịch uy tín hàng đầu thế giới Tripadvisor xếp hạng vào cuối tháng 6 năm 2013 là Bảo tàng dân tộc học Việt Nam đứng thứ 6, và Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đứng thứ 11. Tuy vậy, ngoài Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, số lượng bảo tàng đông đảo còn lại dường như bị chìm vào quên lãng trong hình dung của du khách khi đến với Hà Nội. Theo số liệu thống kê của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, số lượng khách đến tham quan bảo tàng từ năm 2008 đến 2011 giảm từ 167.000 xuống còn 73.000 người, đến năm 2013, con số này giảm xuống xấp xỉ 48.000 lượt khách. Dường như, các bảo tàng đang bị bỏ quên trên bản đồ du lịch của Hà Nội. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Các địa điểm vui chơi giải trí cũng là những địa điểm tham quan du lịch đáng lưu tại Hà Nội. Bên cạnh những địa điểm “truyền thống” của Hà Nội như công viên Thủ Lệ, khu vui chơi tổng hợp hồ Tây, khu du lịch sinh thái Khoang Xanh, Suối Hai.

Trong vài năm trở lại đây, Hà Nội có thêm những khu vui chơi được đầu tư với quy mô lớn như Thiên đường Bảo Sơn, Time City và Royal City. Những địa điểm này đều được đầu tư một cách quy mô, hoành tráng với khuôn viên và cơ sở vật chất không thua kém gì những địa điểm vui chơi nổi tiếng tại khu vực châu Á. Là một trong những minh chứng, Hà Nội là thủ đô được kết hợp giữa vẻ đẹp cổ kính của những giá trị tinh hoa của lịch sử, văn hóa và vẻ đẹp hiện đại tỏa ra từ những công trình sang trọng.

2.2.2. Văn hóa Hà Nội

2.2.2.1. Con người

Cùng với lịch sử phát triển hàng nghìn năm, trải qua nhiều thế hệ, Hà Nội và những con người nơi đây đã vun đúc, tạo dựng những nét văn hóa rất riêng của mảnh đất là thủ đô của một quốc gia ngàn năm văn hiến qua nhiều triều đại. Những đặc điểm văn hóa rất riêng của người Hà Nội, đều được đúc kết một cách tương đối thống nhất trong nhiều nghiên cứu của các học giả nổi tiếng về Hà Nội như đề tài “Nét văn hóa của người Hà Nội” của Tiến sĩ Văn hóa học Lê Thị Tuyết Hạnh, “Thăng Long Hà Nội nghìn năm truyền thống và thanh lịch” của nhà nghiên cứu Giang Quân và nhiều học giả khác. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Qua các đề tài nghiên cứu có thể tổng kết văn hóa của người Hà Nội bằng hai từ “Thanh lịch”. Người Hà Nội xưa, dù công chức hay buôn bán đều có chung một phong thái nhanh nhẹn, khéo ăn khéo nói, cởi mở tươi cười từng câu từng chữ nói ra đều cân nhắc rào trước đón sau, đôi khi hơi khách sáo, chứ không bộc tuệch nông nổi. Là tri thức, trung lưu trưởng giả, thì lại càng chú trọng phong thái, tác phong phải từ tốn, lịch thiệp. Văn hóa Hà Nội còn thể hiện qua trang phục, người Hà Nội xưa thích những trang phục đơn giản, tinh tế, trang nhã, thể hiện đúng địa vị xã hội và nghề nghiệp của mình..

Tuy nhiên, sau một thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội ngày nay là thành phố mơ ước mà rất nhiều người Việt Nam muốn định cư và lập nghiệp. Theo thống kê của Công an Thành Phố Hà Nội, tính đến tháng 6 năm 2013, Hà Nội có khoảng 7,4 triệu dân thường trú, và hơn 1 triệu lao động thời vụ. Tốc độ tăng dân số cơ học hàng năm trung bình khoảng 750.000 người. Với số lượng lớn người nhập cư vào Hà Nội, cùng với sự thay đổi diện tích địa giới hành chính là một trong những nguyên nhân làm văn hóa Hà Nội thay đổi ít nhiều.

Thay bằng sự tĩnh mặc, thanh lịch, nhã nhặn, cuộc sống đã xô bồ hơn rất nhiều. Cuối năm 2012 và trong suốt năm 2013 là giai đoạn nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, xã hội liên tục nói về sự lo ngại trong văn hóa ứng xử của người Hà Nội, đại diện là trào lưu “bún mắng cháo chửi” trong cách hành xử của một bộ phận những người bán hàng đối với khách du lịch. Trào lưu này xuất hiện một cách lạ lùng và để lại những hậu quả đáng lo ngại trong hình ảnh của Hà Nội trong mắt bạn bè quốc tế nói riêng và là một vết nhơ trong văn hóa Hà Nội nói chung. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều vấn đề đáng lo ngại khác như phong cách hành xử nơi công cộng và Hà Nội – với vấn nạn rác xuất hiện khắp nơi trong thành phố.

2.2.2.2. Lễ hội Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Người dân Việt Nam nói chung và người dân Hà Nội nói riêng từ ngàn đời nay đã quen với sự có mặt của các lễ hội trong đời sống hàng ngày, như đại diện cho cuộc sống tâm linh, mong muốn cho hòa bình, an thái, mưa thuận gió hòa, bình an, hành phúc của người Việt. Theo thống kê chính thức mới nhất của Cục văn hóa cơ sở (Bộ văn hóa thể thao và du lịch) thì hiện nay, hàng năm Hà Nội diễn ra 1.070 lễ hội thuộc nhiều thể loại đa dạng:

Lễ hội cung đình: Đây là mảng lễ hội rất thú vị mà chỉ có ở Huế và Hà Nội có được. Song nếu như Huế chỉ là thủ đô của một vương triều nhả Nguyễn, thì Hà Nội lại là nơi đóng đô của nhiều triều đại khác nhau, do đó lễ hội cung đình tại Hà Nội mang tính đa dạng về văn hóa và tính dân gian rõ nét so với lễ hội cung đình Huế. Có thể kể đến lễ hội Đồng Cổ, hội đèn Quảng Chiếu, lễ hội của Thăng Long tứ trấn, hội chùa Đế Thích (chùa vua)…

Lễ hội tưởng nhớ những người anh hùng: Nổi bật nhất phải kể đến hội Gióng – một lễ hội có tầm vóc quốc gia, có sức cuốn hút kỳ lạ các thế hệ người Việt đến mức “mùng chín tháng tư, không đi hội Gióng thì hư một đời”. Tiếp sau đó phải kể đến lễ hội Cổ Loa, lễ hội Hạ Lôi – thờ Hai Bà Trưng, lễ hội gò Đống Đa…

Lễ hội của các vị thần bất tử: Các lễ hội tưởng nhớ “Tứ bất tử” là Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, và Liễu Hạnh Công chúa: Hội Gióng, Lễ hội Ba Vì, hội đền Và, hội phủ Tây Hồ, hội Bà Chúa kho.

Lễ hội phủ, chùa: Là một trung tâm văn hóa, tín ngưỡng, những ngày hội như ở phủ Tây Hồ, đền Ghềnh, chùa Hà, chùa Quán Sứ, chùa Phúc Khánh,… vốn đã có tiếng tăm từ lâu đời. Nhiều hội chùa khác như Láng, Long Khánh, Pháp Vân, Mơ, Bà Đá,… được nhiều người biết đến. Đặc biệt là lễ hội chùa lớn của cả nước – hội chùa Hương – một lễ hội lớn nhất và dài nhất trong năm. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Qua nhiều khảo sát, những lễ hội truyền thống đang diễn ra trên địa bàn thành phố, đều có chung một thực trạng, địa điểm để tổ chức các lệ hội ngày càng bị giới hạn do bị xâm chiếm, lạm dụng; việc thương mại hóa lễ hội cũng diễn ra phổ biến. Tuy nói rằng, những thực trạng này là quy luật của sự phát triển và rất khó thay đổi, song thực tế cho thấy, tại những địa phương mà công tác truyền thông được thực hiện một cách hiệu quả, thì bản sắc lễ hội được duy trì và phát huy bền vững hơn các địa phương không quan tâm đến truyền thông. Như vậy, để lễ hội – một trong những giá trị đặc sắc của văn hóa Hà Nội đóng góp hiệu quả hơn vào hình ảnh du lịch, cần sự vào cuộc mạnh mẽ hơn của truyền thông nhằm nâng cao sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm của mọi người vào gìn giữ nét đẹp truyền thống của Hà Nội.

2.2.2.3. Làng nghề truyền thống

Du lịch làng nghề là một hướng đi mới mẻ, không những đem lại cho làng nghề một hướng phát triển mới, tạo ra đầu ra bền vững, quảng bá cho thương hiệu và sản phẩm của làng nghề, mà nó còn đóng góp cho ngành du lịch một điểm đến thú vị, có tính văn hóa sâu sắc để giới thiệu cho du khách.

Theo thống kê của Sở văn hóa thể thao và du lịch Hà Nội, năm 2013, thành phố có 1.350 làng nghề và làng có nghề chiếm gần 59% tổng số làng, trong đó 244 làng có nghề truyền thống. Số làng có nghề phân bố không đều đa số tập trung chủ yếu ở các huyện: Phú Xuyên 124 làng, Thường Tín 125 làng, Chương Mỹ 174 làng, Ứng Hoà 113 làng, Thanh Oai 101 làng, Ba Vì 91 làng…, trong đó có 198 làng nghề truyền thống được công nhận.

Với số lượng làng nghề đông đảo như vậy, nhưng thực tế, không phải làng nghề nào cũng tận dụng được vẻ đẹp về truyền thống lâu đời của mình để thu hút khách du lịch. Trong cẩm nang du lịch Hà Nội, chỉ có vài cái tên tiêu biểu được liệt kê trong danh sách những làng nghề truyền thống đặc sắc để giới thiệu cho khách du lịch như: Phố vàng bạc kim hoàn – Hàng Bạc, làng gốm Bát Tràng, làng đúc đồng Ngũ Xã, làng giấy Yên Thái, làng vải Ninh Hiệp, làng lụa Vạn Phúc Hà Nội, làng hoa Ngọc Hà, Nghi Tàm, Nhật Tân, Quảng Bá. Như vậy, một số lượng lớn những làng nghề tại Hà Nội chưa thực sự được những người làm du lịch, cụ thể là những người xây dựng chiến lược phát triển du lịch quan tâm, dẫn đến chưa khai thác được tương xứng với tiềm năng để đem đến cho khách du lịch những sản phẩm mới, đặc sắc đa dạng hơn, từ đó đóng góp vào sự phát triển của du lịch.

2.2.3. Các dịch vụ đi kèm Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

2.2.3.1. Cơ sở lưu trú

Là thủ đô, trung tâm văn hóa chính trị, Hà Nội là địa phương dễ dàng tiếp cận nhất với các nguồn đầu tư để tăng cường phát triển cơ sở vật chất cho du lịch.

Biểu đồ 2.1. Biểu đồ số phòng khách sạn 3-5 sao tại Hà Nội từ 2000 – Quý 1/2014

Theo biểu đồ thống kê số lượng khách sạn từ 3 – 5 sao tại Hà Nội, được công bố trong hội thảo về khả năng phát triển phân khúc thị trường khách sạn cao cấp của tập đoàn bất động sản Alternaty tổ chức vào quý I năm 2014, có thể thấy được các cơ sở khách sạn từ 3 sao trở lên tại Hà Nội vẫn luôn giữ được sức tăng trưởng ổn định về số lượng. Từ năm 2000, với 4.300 phòng, sau 10 năm, số lượng phòng đã tăng thêm gần 70% đạt mốc 7200 vào năm 2010 và tiếp tục tăng từ 3 – 500 phòng mỗi năm trong các năm sau đó. Theo Vụ khách sạn – Tổng cục du lịch Việt Nam, Hà Nội là một trong những thành phố của Việt Nam được trang bị một hệ thống cơ sở lưu trú đông đảo, có chất lượng cao và không ngừng phát triển. Trên toàn thành phố Hà Nội, tính đến quý 1 năm 2014, có gần 1.800 cơ sở lưu trú, cung cấp trên 57.000 buồng phòng, trong đó có 57 khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên, cung cấp 9.231 phòng. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Tuy nhiên, lại có những ý kiến trái ngược nhau về tình trạng cơ sở lưu trú ở Hà Nội hiện nay, theo SVHTT&DL Hà Nội, các cơ sở lưu trú ở Hà Nội chủ yếu là các khách sạn, nhà nghỉ, nhà khách không được xếp hạng tới dưới 3 sao, số lượng khách sạn từ 3 sao trở lên chưa nhiều, chỉ chiếm tỷ lệ gần 3%, do đó khách du lịch đến Hà Nội luôn gặp trở ngại trong việc đặt phòng, các khách sạn nhỏ luôn ở trong tình trạng thiếu phòng và khó khăn trong việc tiếp các đoàn khách du lịch lớn, gây ra hạn chế chi tiêu của du khách. Thêm vào đó, chất lượng cơ sở vật chất, phục vụ ở các cơ sở cư trú nhỏ thường không đảm bảo, đem lại tâm lý không thoải mái cho khách du lịch, từ đó rút ngắn thời gian lưu trú. Trong khi đó, theo CRBE (Center for Business Research and Extension), doanh thu, công suất sử dụng phòng, giá phòng và doanh thu tính trên phòng của các khách sạn từ 3 sao trở lên trên địa bàn Hà Nội đều giảm trong năm 2012, 2013 so với cùng kỳ các năm trước đó, gây ra tâm lý e dè của các nhà đầu tư vào thị trường khách sạn cao cấp tại Hà Nội.

Trên thực tế, việc sở hữu những khách sạn sang trọng bậc nhất trên cả nước, cần được biến thành thế mạnh của Hà Nội. Quảng bá về thương hiệu của mình để thu hút khách du lịch là điều mà hiển nhiên các tập đoàn khách sạn lớn phải làm. Tuy nhiên, để hiệu quả trở nên rõ rệt hơn, thì những hỗ trợ quảng bá từ chính những chiến lược marketing trên quy mô điểm đến là điều vô cùng cần thiết, vừa thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở lưu trú có tiềm năng lớn trong thành phố, vừa góp phần kích thích nhu cầu tiêu thụ của khách du lịch từ đó tăng chi tiêu cho du lịch tại Hà Nội.

2.2.3.2. Nhà hàng – Quán ăn Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Theo Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội, hệ thống cửa hàng, nhà hàng cung cấp dịch vụ ẩm thực tại Hà Nội đang được phát triển khá mạnh, tính xã hội hoá khá cao, đã đem lại cho Thủ đô vị thế cao trong hệ thống du lịch ẩm thực thế giới và khu vực. Các cơ sở ăn uống ở Hà Nội thời gian qua phát triển nhanh chóng phong phú và đa dạng từ các nhà hàng Á, Âu, các quán Bar, caffe, các quán ăn nhanh đến các dãy phố ẩm thực truyền thống như Tống Duy Tân, những nhà hàng đặc sản gia truyền nằm trên các khu phố cổ – giới thiệu nghệ thuật ẩm thực Việt Nam và Hà Nội

Tuy nhiên, nói về dịch vụ ăn uống, phong cách phục vụ là một vấn đề rất đáng lo ngại tại thành phố Hà Nội. Theo khảo sát của Vietnamnet thực hiện vào tháng 12 năm 2013, hầu như 100% những người được lấy ý kiến đều cho rằng phong cách phục vụ ở Hà Nội rất tệ, việc nhân viên của các nhà hàng, cửa hàng ăn tại Hà Nội tỏ thái độ khó chịu, “phục vụ như đuổi khách” đã trở nên không mấy xa lạ với những người dân, hay thậm chí là những người từng ghé thăm Hà Nội. Chỉ so sánh với thành phố Hồ Chí Minh, thì dịch vụ tại Hà Nội đã thua xa về khả năng phục vụ và làm hài lòng khách hàng.

Đây là một vấn đề đáng lo ngại, vì nó không chỉ ảnh hưởng đến một vài cá nhân, hay riêng ngành dịch vụ ăn uống, mà nó còn tác động đến hình ảnh của cả một thành phố đối với tất cả các khách du lịch trong nước và quốc tế, tạo ra những đánh giá sai lệch về con người và văn hóa của cả địa phương. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

2.2.3.3. Dịch vụ mua sắm, lưu niệm

Mua sắm là thú vui của du khách là một yếu tố cấu thành trong sản phẩm du lịch, đặc biệt là các đô thị du lịch như Hà Nội. Với lượng khách du lịch trong nước và quốc tế đến Hà Nội ngày một tăng, cộng với sức tiêu thụ nội địa lớn, đã thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển và thu hút nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Hiện Hà Nội có 10 trung tâm thương mại lớn với 84 siêu thị, hàng trăm các cửa hàng với đủ các chủng loại hàng hóa phong phú phục vụ nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân và du khách đến Hà Nội. Chi tiêu cho mua sắm của khách chiếm tỷ trọng khá lớn từ 15% đến 26% (nhất là khách Pháp, khách ASEAN, Châu Á và khách nội địa). Bên cạnh đó, Hà Nội có nhiều các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thông như đồ gốm sứ, thêu, thổ cẩm, sơn mài, khảm trai, tranh sơn dầu được khách du lịch ưa chuộng, mua sắm làm quà tặng, đồ lưu niệm. (Số liệu – Sở VHTT&DL Hà Nội).

Tuy nhiên hệ thống cơ sở dịch vụ mua sắm phát triển còn manh mún, nhiều tuyến phố mua sắm hàng hoá, đồ lưu niệm hình thành tự phát, dịch vụ, hàng hoá thiếu hấp dẫn, ảnh hưởng đến trật tự quản lý đô thị, làm giảm tính hiệu quả của dịch vụ mua sắm.

2.3. Thực trạng các hoạt động marketing điểm đến cho du lịch Hà Nội Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Đối với nhiều nước phát triển, NTO thường là các tổ chức du lịch quốc gia của nước đó ví dụ như: Tổ chức du lịch quốc gia Nhật Bản (Japan National Tourism Organization), Tổ chức du lịch Hàn Quốc (Korea Tourism Organization). Tại Việt Nam, tổ chức chịu trách nhiệm tổng thể về quản lý, quảng bá, xúc tiến và phát triển du lịch là Tổng cục Du lịch Việt Nam (Vietnam National Administration of Tourism) trực thuộc Bộ VHTT&DL. Xét riêng tại thành phố Hà Nội, thì đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp về các hoạt động phát triển du lịch Hà Nội là Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội.

Mặc dù trong nhiều năm, du lịch luôn được coi là một trong những ngành trọng điểm của thủ đô, tuy nhiên, vấn đề phát triển và quảng bá du lịch thủ đô mới được thật sự quan tâm trong vài năm trở lại đây (từ đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội năm 2010 đến nay).

Để đánh giá chính xác thực trạng của việc thực hiện các chương trình marketing điểm đến trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay cần đánh giá theo từng hạng mục của một tiến trình xây dựng chiến lược marketing điểm đến hoàn chỉnh.

2.3.1. Lựa chọn thị trường mục tiêu và định vị thị trường

Trong kỳ họp thứ 5, hội đồng nhân dân thành phố khóa XIV, hội đồng nhân dân thành phố đã thông qua nghị quyết về việc quy hoạch phát triển du lịch thành phố hà nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó có chỉ ra:

Định hướng về thị trường du lịch của Hà Nội từ 2012 – 2020: Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Thị trường nước ngoài: Đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế ở thị trường truyền thống như Đông Bắc Á (tập trung Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan và Australia), Tây Âu (tập trung Đức và Pháp), Bắc Mỹ và thị trường ASEAN. Mở rộng thu hút khách du lịch đến các thị trường mới như Trung Đông và Bắc Âu…

Thị trường trong nước: Phát triển mạnh thị trường nội địa, tăng cường liên kết giữa Hà Nội với các vùng, miền, địa phương trong cả nước, tập trung thị trường tại các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, vùng trung du, miền núi Bắc bộ, vùng Bắc Trung bộ và các đô thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng…

Như vậy, thị trường mục tiêu của du lịch Hà Nội đã được nghị quyết xác định tương đối rõ ràng, từ đó sẽ tạo thuận lợi cho những chiến lược, chương trình marketing điểm đến trong tương lai. Việc tập trung vào những thị trường thế mạnh sẽ tăng hiệu quả của việc sử dụng các công cụ marketing cũng như nguồn ngân sách hơn nhiều so với việc triển khai dàn trải không có định hướng rõ ràng.

Về định vị thị trường, có thể khẳng định cho tới nay Hà Nội chưa có một quyết định chính thức nào về những đặc điểm nổi trội của du lịch Hà Nội đang được sử dụng để định vị trên thị trường du lịch trong nước và quốc tế. Các lợi thế cạnh tranh được sử dụng trong các chương trình marketing, từ điểm đến cho tới từng cá nhân doanh nghiệp đều không có sự nhất quán và định hướng đồng bộ giữa rất nhiều những nét đặc sắc mà du lịch Hà Nội đang sở hữu.

2.3.2. Về xây dựng và quản trị thương hiệu điểm đến Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Đối với một điểm đến, thương hiệu được coi là một công cụ quyết định trong thành công của địa điểm du lịch đó. Đánh giá thực trạng xây dựng thương hiệu của Hà Nội hiện tại có thể thấy, qua rất nhiều nghị quyết, chính sách, ví dụ như “Quy hoạch phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” của UBND Thành phố Hà Nội, hay các đề suất của Sở SVHTT&DL Hà Nội, xây dựng thương hiệu của Hà Nội đều mới được vạch ra một cách chung chung và nằm trên giấy tờ, chưa có bất cứ chương trình cụ thể nào được triển khai thực hiện.

Để xây dựng được một thương hiệu thành công, đòi hỏi phải có từng bước đi bài bản, từ nghiên cứu thị trường, đánh giá phản hồi từ công chúng, lựa chọn thông điệp mang tính đại diện và cách chiến lược để truyền tải thông điệp đó. Tuy nhiên, hiện nay các chương trình marketing điểm đến du lịch của Hà Nội mới chỉ dừng lại ở việc cố gắng đem những sản phẩm du lịch mà Hà Nội sở hữu, chủ yếu thông qua các chương trình xúc tiến thương mại để đến và thu hút sự chú ý của khách du lịch trong và ngoài nước.

Hà Nội hiện chưa có bất cứ chương trình nào về xây dựng và quản trị thương hiệu được thực hiện hoàn chỉnh, các bước đi mới dừng lại ở các công trình nghiên cứu khoa học (Ví dụ: Đề tài thiết lập quy trình xây dựng thương hiệu điểm đến cho Hà Nội

Đề tài NCKH cấp cơ sở do TS. Nguyễn Đình Hòa làm chủ nhiệm năm 2005). Chưa có các dự án nghiên cứu thị trường để tiếp nhận, phân tích phản hồi từ đó làm căn cứ lựa chọn các công cụ đại diện cho thương hiệu; do vậy, hiển nhiên, Hà Nội chưa có biểu tượng hay thông điệp chính thức nào làm đại diện cho hình ảnh du lịch của mình.

Hình 2.1. Logo của Sở VHTT&DL Hà Nội Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Logo hiện đang được sử dụng trên cổng thông tin chính thức của Sở VHTT&DL Hà Nội là hình ảnh Khuê Văn Các, một địa điểm nổi tiếng tại Hà Nội. Tuy nhiên, logo được thiết kế đơn điệu, với một màu duy nhất, thiếu ý tưởng, không gây được sự chú ý, không có slogan hay thông điệp đi kèm, và không có bất cứ văn bản nào chứng nhận đây là logo chính thức của du lịch Hà Nội.

Các logo đại diện du lịch Hà Nội được sử dụng trong các chương trình quảng bá thường là logo của các công ty lữ hành Hà Nội, không có tính đồng bộ.

Hình 2.2. Logo du lịch Hà Nội

Tại nhiều tỉnh thành trên cả nước, đặc biệt là các trung tâm du lịch, đã và đang triển khai rất nhiều hoạt động để xây dựng và hoàn thiện bộ nhận diện thương hiệu cho địa phương của mình, như các cuộc thi nhằm xây dựng logo và thông điệp cho các điểm đến du lịch Hạ Long – Quảng Ninh, Lạng Sơn, Nha Trang, Đà Nẵng… thu hút được sự quan tâm của rất nhiều người có chuyên môn. Trong khi đó, quá trình triển khai bước cơ bản nhất trong quy trình xây dựng thương hiệu là bộ nhận diện của du lịch Hà Nội vẫn chưa tạo được bước tiến đáng kể nào. Như vậy, các hoạt động truyền thông của du lịch Hà Nội hiện tại, không hề có logo chính thức, cũng không mang một thông điệp đại diện rõ ràng.

2.3.3. Về quản trị sản phẩm du lịch Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Hiện nay, theo Sở VHTT&DL Hà Nội, du lịch Hà Nội mới dừng lại ở việc phân loại những loại hình du lịch thu hút du khách đến Hà Nội, qua đó tập trung đầu tư phát triển như:

  • Du lịch văn hóa: Là thế mạnh và là sản phẩm du lịch đặc trưng của Hà Nội, tập trung vào các loại hình như tham quan di tích lịch sử văn hoá, làng nghề, tham quan phố cổ, du lịch lễ hội, du lịch cộng đồng.
  • Du lịch sinh thái tập trung vào các sản phẩm: Tham quan, nghiên cứu tìm hiểu các giá trị cảnh quan, sinh thái tại khu vực Vườn quốc gia Ba Vì; khu danh thắng Hương Sơn; khu vực núi Sóc – hồ Đồng Quan.
  • Du lịch vui chơi giải trí: Tập trung hình thành các khu vui chơi giải trí như Khu vui chơi giải trí tổng hợp Sóc Sơn; Khu vui chơi giải trí khám phá thiên nhiên Ba Vì; Khu vui chơi giải trí thể thao ở khu vực Ba Vì, Sóc Sơn; Khu vui chơi giải trí Thế giới nước Hồ Tây; Khu Thiên đường Bảo Sơn.
  • Du lịch MICE gồm: Các sự kiện chính trị quốc tế, các sự kiện văn hóa thể thao lớn được tổ chức thường xuyên, các sự kiện du lịch: hội chợ du lịch, festival du lịch…
  • Du lịch nghỉ dưỡng: Tập trung phát triển ở Ba Vì, Sóc Sơn.
  • Du lịch mua sắm: Phát triển tại các trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm hiện đại, các điểm du lịch làng nghề truyền thống nổi tiếng.
  • Du lịch nông nghiệp: Phát triển ở các vùng ngoại thành, bổ sung hỗ trợ cho các chương trình du lịch nội đô.

Với một hệ thống sản phẩm du lịch đông đảo về số lượng, đa dạng về chủng loại, để bảo tồn và giữ gìn được những nét đặc sắc của các sản phẩm này. Sau những ghi nhận rất đáng báo động về tình trạng xuống cấp trầm trọng của một loạt các sản phẩm du lịch, các nhà quản trị du lịch Hà Nội cũng đã bước đầu có những chương trình marketing điểm đến nhằm khắc phục và hạn chế tình trạng trên. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

2.3.3.1. Quản trị di tích lịch sử – văn hóa

Sở hữu một tài sản đồ sộ về văn hóa và lịch sử với 5.175 di tích, tuy nhiên, Hà Nội đang đối diện với một thách thức lớn trong việc duy trì và bảo tồn những di tích này. Trên thực tế, theo thống kê của SVHTT&DL Hà Nội trong năm 2013, Hà Nội có tới 600 di tích đang xuống cấp cùng hàng trăm di tích khác bị chiếm dụng ở các mức độ khác nhau. Thực trạng này xảy ra, nguyên nhân đầu tiên cần tính đến là do tác động của thời gian, thời tiết khiến chất lượng các công trình ngày càng giảm sút. Nhưng trên hết đó là do sự thiếu quan tâm, giám sát, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, và một phần không nhỏ là do ý thức của chính những người dân sinh sống và làm việc gần địa điểm các di tích cũng như khách du lịch. Trong hơn 5000 di tích trong đó có hơn 2000 di tích được xếp hạng, thành phố Hà Nội chỉ trực tiếp quản lý 12 di tích, còn lại chủ yếu giao cho chính quyền các địa phương cấp xã phường tự quản lý.

Những vụ việc nổi cộm về sự xuống cấp nghiêm trọng của các di tích tại Hà Nội có thể kể đến như tình trạng dột nát ở nhà Mẫu của chùa Một Cột – một trong những biểu tượng văn hóa đặc sắc của Hà Nội, tình trạng này diễn ra một thời gian dài mà không có phương án xử lý, khiến sư trụ trì chùa Một Cột mặc áo mưa, đội nón cho tượng Phật, tạo ra một hình ảnh hết sức phản cảm. Hay như chùa Ðậu (xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín). Ngoài mái nhà giải vũ bị hư hỏng, thì chùa còn bị một số gia đình lấn chiếm tam quan chùa làm nơi bán hàng. Ðây cũng là tình trạng chung của rất nhiều di tích trên địa bàn thành phố.

Trong năm 2013, và đầu năm 2014, UBND Thành phố Hà Nội và Sở VHTT&DL Hà Nội cũng đã thể hiện một vài nỗ lực nhằm lấy lại được những nét đặc trưng của các di tích lịch sử văn hóa thủ đô như: Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Xúc tiến thực hiện tôn tạo, nâng cấp ba địa điểm du lịch quan trọng của Hà Nội: Đền Ngọc Sơn – khu vực quanh hồ Gươm, Văn Miếu – Quốc Tử Giám, và nhà tù Hỏa Lò. Tại di tích đền Ngọc Sơn, Sở tiến hành tu bổ những phần sứt mẻ, xóa chữ viết, sửa chữa, phục hồi phần hư hỏng tại đền chính và đình Trấn Ba. Đối với di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, quy hoạch hồ Văn, vườn Giám thành không gian văn hóa chuyên đề, tổ chức sự kiện phục vụ khách du lịch. Sở cũng lên kế hoạch thực hiện Dự án tu bổ, tôn tạo Khuê Văn Các, nâng cấp lắp đặt hệ thống chiếu sáng công để giảm bớt đèn chiếu sáng gắn trên công trình. Tại Nhà tù Hỏa Lò sẽ áp dụng mọi biện pháp để trùng tu, đảm bảo lưu giữ yếu tố gốc của lịch sử. Để thu hút khách du lịch, Sở VHTT&DL Hà Nội đang nghiên cứu tổ chức các buổi nói chuyện giữa cựu tù chính trị với khách du lịch, học sinh, sinh viên, tổ chức các hoạt động trải nghiệm cảm giác vượt tù, vượt ngục… Sở VHTT&DL Hà Nội cho biết thêm, sẽ tăng cường kết nối tour, xây dựng các tour du lịch chuyên đề tham quan các di tích Văn Miếu, tuyến du lịch di tích cách mạng, tổ chức tour hoạt động ngoại khóa của các trường học đến di tích…

Như vậy, có thể thấy công tác bảo tồn di sản Hà Nội đã có những hành động cụ thể. Tuy nhiên, trong hơn 600 di tích xuống cấp, việc tập trung tôn tạo 3 di tích, dù là 3 di tích trọng điểm, cũng chưa thể tạo ra hiệu quả đáng kể, còn rất nhiều công trình quan trọng khác chất lượng đang xuống dốc từng ngày. Thêm vào đó, nhiều hoạt động vẫn đang ở bước xem xét và nghiên cứu, hiệu quả chỉ có thể đánh giá được khi đã đi vào hoạt động. Từ năm 2012 trở về trước, Hà Nội đã chứng kiến nhiều công trình đã gần như mất hết giá trị sau khi “bị” trùng tu, như việc đắp xi măng và sơn lại Ô Quan Chưởng trong đầu năm 2010, hay vụ việc được coi là “thảm họa trùng tu” đập chùa cũ xây chùa mới ở di sản văn hóa quốc gia nổi tiếng chùa Trăm Gian thời Lý (huyện Chương Mỹ, TP.Hà Nội). Những vụ vi này thể hiện sự thiếu trách nhiệm và tính chuyên nghiệp trong việc nghiên cứu và thực hiện các phương án tu bổ và quản trị di tích, đồng thời đòi hỏi trong tương lai gần, những chiến lược, giải pháp cụ thể phải được đưa ra để bảo tồn các giá trị của di sản đang mất đi từng ngày.

Về công tác quản trị, các giải pháp nhằm giải quyết và ngăn chặn các hành vi xâm phạm di tích vẫn bế tắc. Theo khảo sát về “Cảm nhận của khách du lịch về chất lượng du lịch tại hà nội” (The Evaluation of Customers’ Feeling About The Tourism Services Quality in Hanoi – ECFTSQH) được tác giả tiến hành từ 01/06/2014 – 17/06/2014 trên 236 khách du lịch nội địa và quốc tế (thông tin chi tiết tại Phụ lục), có tới 42,37% khách du lịch không cảm thấy các sản phẩm du lịch của Hà Nội hiện nay hấp dẫn, thú vị. Điều này cho thấy, các hoạt động thiết kế tour còn quá ít lựa chọn, chưa khai thác được hết thế mạnh về số lượng di sản dồi dào.

2.3.3.2. Quản trị danh thắng thiên nhiên Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Hà Nội sở hữu nhiều hồ tự nhiên đẹp cùng với những truyền thuyết thú vị trong khu vực nội thành, cùng nhiều quần thể sinh thái đa dạng tại khu vực ngoại thành. Tuy nhiên, trước sự buông lỏng quản lý về môi trường, hầu hết các sông hồ trên địa bàn thành phố đều đang ở trong tình trạng ô nhiễm. Khảo sát ECFTSQH cho thấy, điều này đang tác động mạnh đến cảm nhận của du khác khi đến du lịch tại Hà Nội, khi có tới 95,33% du khách cảm thấy điều kiện tự nhiên tại Hà Nội đang ở mức không trong lành tới rất ô nhiễm. Để cứu vãn tình trạng trên Hà Nội đã có nhiều hội thảo, đưa ra nhiều phương án để khắc phục. Nổi bật như Đề án Cải tạo sông Tô Lịch, từ cách đây hơn 5 năm, rất nhiều hoạt động trong đề án này đã được tiến hành như xây kè hai bên bờ sông, nạo vét lớp bùn dày ô nhiễm dưới lòng sông, nghiên cứu dẫn nước sông Hồng để thay nước sông Tô Lịch. Tuy nhiên, thực trạng ô nhiễm sâu hơn một mét do nguồn nước thải không qua xử lý xả ra trong nhiều năm, nên sau nhiều nỗ lực, hiện nay sông Tô Lịch vẫn được coi là một chiếc “cống” lớn của Hà Nội.

Bên cạnh đó, đối với hồ Hoàn Kiếm, năm 2010, một dự án quy mô về Khấn cấp cứu cụ Rùa đã được thực hiện với sự tham gia của rất nhiều giáo sư tiến sĩ của các ngành có liên quan. Trong năm 2013 Sở VHTT&DL tiến hành khôi phục khu vực vườn tượng bị xuống cấp nghiêm trọng cạnh hồ, trả lại giá trị thắng cảnh cho khu vực hồ. Nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch, cũng như đề cao các giá trị tại những địa điểm này, Sở dự kiến tổ chức lễ hội định kỳ trên cầu Thê Húc, tổ chức lễ hội mô phỏng lại truyền thuyết trả gươm trên hồ. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Từ tháng 7 năm 2010, thành phố chính thức thực hiện dự án giao thông sạch khu vực phố cổ và quanh hồ Hoàn Kiếm với việc đưa vào sử dụng 12 xe ô tô điện phục vụ khách du lịch, cho tới nay, số lượng xe điện đã tăng lên 50 xe (Thống kê của Bộ giao thông vận tải – 2014). Việc đưa vào sử dụng những tuyến xe điện này góp phần bảo vệ môi trường, tăng sự thuận tiện và thoải mái trong việc di chuyển của khách du lịch nên được đánh giá khá cao, tuy nhiên, chất lượng phục vụ, khả năng giao tiếp của lái xe, việc niêm yết giá nhất quán, vẫn là những vấn đề đang tồn tại cần được xử lý nhằm hoàn thiện dịch vụ này.

Trong quý I năm 2014, nhằm nâng cao khả năng thu hút khách du lịch của Hà Nội, thành phố đã lên kế hoạch Quy hoạch phát triển khu vực Ba Vì – Suối Hai thành khu du lịch quốc gia và đề án phát triển du lịch cộng đồng khu vực Ba Vì.

2.3.3.3. Quản trị bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống

Trước tình trạng nhiều nét văn hóa truyền thống đậm nét của Hà Nội đang bị đe dọa bởi sự tác động của phát triển kinh tế, mở cửa, hội nhập, và tác động của những luồng văn hóa nước ngoài du nhập một cách mạnh mẽ, Hà Nội đang rất cần những hành động cụ thể để văn hóa Hà Nội không bị hòa tan trong luồng văn hóa ngoại nhập.

Đứng trước tình hình đó, một vài chương trình đã được thực hiện nhằm lưu giữ và phát triển những nét đặc sắc trong cuộc sống người Hà Nội xưa và nay: Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Tháng 12 năm 2013, quận Hoàn Kiếm xúc tiến triển khai xây dựng tuyến phố ẩm thực tại khu bảo tồn cấp I phố cổ Hà Nội, gồm Hàng Buồm- Mã Mây- Hàng Giầy-Lương Ngọc Quyến – Tạ Hiện – Đào Duy Từ. Các tuyến phố ẩm thực sẽ nằm trong không gian đi bộ mở rộng phục vụ khách du lịch và người dân Hà Nội tham quan, trải nghiệm phố cổ Hà Nội, khám phá các giá trị văn hóa, ẩm thực của đất Kinh kỳ xưa. Ẩm thực là một trong những nét đặc biệt thu hút của Hà Nội, do vậy, việc gìn giữ những món ăn đặc sản truyền thống theo đúng cách chế biến và thưởng thức của cha ông để giới thiệu đến người dân trong nước và bạn bè quốc tế, là điều vô cùng quan trọng. Bên cạnh tuyến phố đang được triển khai, Hà Nội đã thí điểm một vài phố ẩm thực, hiện đã trở thành điểm đến nổi tiếng của đông đảo du khách như phố ẩm thực Tống Duy Tân, phố Cấm Chỉ. Tuy ẩm thực có điều kiện phát triển, nhưng phong cách phục vụ lại đang là vấn đề gây bức xúc nhất. Theo phản hồi của nhiều du khách, việc nhân viên đổ xô ra đường chèo kéo, mời chào khách gây cản trở đi lại, tạo nên một hình ảnh rất phản cảm trên các tuyến phổ ăn uống. Không những vậy, chèo kéo khách ngoài đường, nhưng bên trong hàng phong cách phục vụ lại thờ ơ, hời hợt là một điểm mâu thuẫn rất khó hiểu của dịch vụ ăn uống tại Hà Nội.

Về bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, hiện nay, cơ quan này dự kiến xin thành phố 50 ha đất cạnh đường cao tốc Nhật Tân – Nội Bài để xây dựng khu trưng bày sản phẩm các làng nghề tại Hà Nội và tổ chức trình diễn nghề phục vụ khách du lịch.

Đánh giá về các hoạt động marketing điểm đến nhằm phát triển các sản phẩm văn hóa phục vụ du lịch Hà Nội, có thể thấy là số lượng chương trình được triển khai còn khá hạn chế, nhỏ lẻ ở một vài sản phẩm. Những tồn tại mang tính bức thiết chưa thực sự được quan tâm và có hướng giải quyết, như văn hóa phục vụ, văn hóa ứng xử của người dân tại Hà Nội. Bên cạnh đó, việc phát triển làng nghề vẫn chưa đi vào thực chất, tìm ra cách thức giúp các làng dễ dàng tiếp cận hơn đối với du lịch, chưa có các giải pháp định hướng phát triển làng nghề bền vững, thân thiện hơn.

2.3.3.4. Quản trị về giá Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Là thủ đô của một nước đang phát triển, tuy nhiên, suốt từ năm 2006 đến nay, Hà Nội luôn lọt vào top 50 thành phố có chi phí sinh hoạt lớn nhất châu Á do ECA International – tổ chức tư vấn quản lý nhân sự quốc tế uy tín xếp hạng. Năm 2013, Hà Nội đứng ở số 38 châu Á, trong khi Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ 43, như vậy so với thành phố có kinh tế phát triển nhất cả nước, chi phí tại Hà Nội còn đắt đỏ hơn.

Điều này cho thấy, mặc dù chất lượng phục vụ chưa được đánh giá cao, nhưng giá cả chi tiêu của Hà Nội lại luôn đứng đầu trong cả nước, cũng như nằm trong top cao trong khu vực. Theo khảo sát ECFTSQH, 34,32% du khách được hỏi cho rằng giá của các cơ sở lưu trú tại Hà Nội là đắt và rất đắt so với các địa điểm du lịch khác tại Việt Nam, con số này cao hơn nhiều đối với dịch vụ ăn uống, lên tới 67,8%.

Thêm vào đó, sự buông lỏng quản lý về giá cả, lảm tình trạng nâng giá bừa bãi đối với khách du lịch diễn ra rất phổ biến. Không có thống kê chính thức, tuy nhiên, theo tổng hợp từ cổng thông tin của Sở VHTT&DL Hà Nội, vào mùa cao điểm, giá nhà nghỉ, khách sạn thường được tự ý nâng từ 50 – 100%, đắt gấp đôi giá niêm yết. Đối với khách du lịch quốc tế, việc bị nâng giá tùy tiện lên 5 – 10 lần diễn ra thường xuyên. Đỉnh điểm, khi có liên tiếp 4 vụ việc khách nước ngoài cầu cứu cơ quan công an vì bị “chặt chém” xảy ra trong tháng 4 năm 2013, liên tục được đưa tin trên báo chí (Nạn nhân là cặp vợ chồng người Ireland phải trả 980 nghìn vì đi taxi 2km, một du khách Úc phải trả 1,3 triệu cho xích lô sau khi đi 5km, hai du khách Đức bị đòi 840 nghìn cho 3 quả dứa, và một nhóm ba thanh niên người Pháp bị tài xế taxi và nhân viên khách sạn trấn lột và đe dọa tính mạng).

Các vụ việc trên thể hiện sự yếu kém trong việc quản lý giá cả của du lịch Hà Nội, đại diện của Tổng cục du lịch Việt Nam thừa nhận, tất cả các nỗ lực quảng bá sẽ là vô nghĩa nếu những hình ảnh “chặt chém” du khách vẫn tái diễn hàng ngày. Cái tốt là hiển nhiên, cái xấu mới là dị thường, được chú ý, truyền miệng rất nhanh và có hiệu quả tức thời. Nếu thái độ phục vụ, phong cách phục vụ, cách thức quản lý giá cả của Hà Nội không có sự thay đổi, không thể hiện được sự chuyên nghiệp, làm hài lòng du khách, thì chất lượng thực chất của du lịch Hà Nội rất khó được nâng cao.

2.3.4. Về quảng bá và xúc tiến hỗn hợp Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Sở VHTT&DL thừa nhận, hiện nay Hà Nội đang loay trong việc thực hiện các công tác xúc tiến để đạt hiệu quả cao. Thực tế, ngân sách chi cho xúc tiến du lịch tại Hà Nội tính tới năm 2013 vẫn ở con số hết sức khiêm tốn: xấp xỉ 1USD/khách du lịch, trong khi đó của Thành phố Hồ Chí Minh là 2,5USD/khách, Thái Lan khoảng 10USD/khách, Singapore 16USD/khách, Malaysia 20USD/khách. Lãnh đạo thành phố Hà Nội cho rằng, thành phố sẵn sàng chi mạnh tay hơn cho quảng bá phát triển du lịch, tuy nhiên chưa tìm được hướng đi thực sự hiệu quả. Theo Tổng cục du lịch, từ đầu năm 2014, bộ phận xúc tiến du lịch Hà Nội sẽ chính thức chuyển sang Ủy ban Nhân dân thành phố quản lý thay vì Sở VHTT&DL quản lý như trước.

2.3.4.1. Quan hệ công chúng/ Tuyên truyền

Từ đại lễ nghìn năm Thăng Long – Hà Nội diễn ra vào năm 2010, các hoạt động quan hệ công chúng, tuyên truyền về du lịch Hà Nội bắt đầu được tích cực chú trọng đầu tư và xúc tiến, với mong muốn tận dụng ngày lễ lớn nghìn năm của Thủ đô, đem hình ảnh của Hà Nội trở nên gần gũi, quen thuộc, với người dân trên mọi miền tổ quốc và bạn bè quốc tế.

Qua các năm sau đó, Sở VHTT&DL Hà Nội cũng thường xuyên tiến hành các chương trình tuyên truyền. Như trong năm 2013, sau nghị quyết thông qua quy hoạch phát triển du lịch thành phố hà nội đến năm 2020, hội đồng nhân dân khóa XIV, kỳ họp thứ 5, Hà Nội đã có những chuyển biến tích cực trong việc thực hiện các hoạt động phát triển du lịch. Theo đó, thành phố đã đẩy mạnh công tác cung cấp thông tin du lịch cho nhiều doanh nghiệp du lịch, các nhà đầu tư du lịch, khách du lịch trong và ngoài nước thông qua hoạt động xúc tiến trong nước và quốc tế. Cụ thể như: Hà Nội đã thực hiện chương trình tuyên truyền “Ấn tượng Hà Nội” hưởng ứng chương trình tuyên truyền trên truyền hình “Ấn tượng Việt Nam” của Bộ VHTT&DL; tuyên truyền quảng bá du lịch trên các phương tiện thông tin đại chúng qua các phóng sự, tin, bài, video clip; giới thiệu du lịch Thủ đô thông qua sách Hướng dẫn Du lịch Hà Nội (guide book); in mới và phát hành Bản đồ Du lịch Hà Nội, Bản đồ Hà Nội hợp tác với các tỉnh ký kết hợp tác liên kết (Hà Nội – Bắc Giang – Lạng Sơn; Hà Nội – Huế); đẩy mạnh công tác cung cấp thông tin du lịch tại các quầy Thông tin Nội Bài, Lê Thạch và Vườn hoa Nhà hát lớn Hà Nội; bổ sung thông tin du lịch Hà Nội mới trên các ki-ốt thông tin du lịch điện tử… Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Năm 2014, Hà Nội sẽ đưa vào biên tập và xuất bản Bản tin Du lịch Hà Nội 4 kỳ/năm; xây dựng sách Ebook du lịch (dạng USB); làm đĩa CDRom Hướng dẫn Du lịch Hà Nội bằng tiếng Anh trên cơ sở biên tập lại sách Hướng dẫn Du lịch Hà Nội; tiếp tục duy trì quầy thông tin du lịch tại Nhà ga T1 sân bay Nội Bài; nghiên cứu xây dựng mới một số quầy thông tin du lịch trong nội đô để giới thiệu, quảng bá và cung cấp thông tin du lịch cho các doanh nghiệp du lịch, các du khách khi đến Hà Nội…

Xét trên tổng thể, du lịch Hà Nội đã và đang thực hiện các bước đi cụ thể để tăng cường độ nhận diện thương hiệu của du lịch thủ đô. Tuy nhiên, các hoạt động tuyên truyền, quan hệ công chúng hiện tại vẫn đang tập trung vào việc phát triển độ phủ của hình ảnh Hà Nội ra cả nước và các nước là thị trường du lịch mục tiêu. Chưa thực sự quan tâm đến những vấn đề còn tồn tại của du lịch Hà Nội như con người, cụ thể hơn là nâng cao ý thức, lòng tự hào của chính người dân sống tại thủ đô, giúp họ xác định được trách nhiệm của mình trong việc xây dựng hình ảnh thủ đô, giữ gìn và phát triển các sản phẩm du lịch quý báu mà Hà Nội đang sở hữu. Hay nói khái quát hơn, các chương trình tuyên truyền mới đang tập trung vào thu hút khách hàng, mà chưa quan tâm tới tuyên truyền nội bộ tại chính điểm đến nhằm nâng tầm giá trị thực sự của hình ảnh du lịch Hà Nội.

2.3.4.2. Xúc tiến thương mại

Hoạt động xúc tiến thương mại phổ biến nhất của du lịch Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng nhằm tăng hiệu quả kích cầu du lịch chính là hội trợ triển lãm du lịch, bên cạnh đó là các hoạt động liên hoan du lịch, tổ chức lễ hội Việt Nam tại các nước là thị trường du lịch chủ chốt. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Năm 2013 cũng đánh dấu nhiều hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Hà Nội được thực hiện, khởi động với việc tổ chức thành công lễ khai hội Chùa Hương vào ngày 15/2 (mùng 6 tết). Đây là sự kiện mở đầu của ngành du lịch Hà Nội tham gia trong Chương trình Năm du lịch Quốc gia đồng bằng sông Hồng – Hải Phòng 2013. Tổ chức thành công Liên hoan du lịch làng nghề truyền thống Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng diễn ra từ ngày 8/10 – 12/10/2013 tại Cung Thể thao tổng hợp Quần Ngựa Hà Nội. Hoàn thành chương trình triển lãm giới thiệu Du lịch Hà Nội tại Tuần Văn hoá, Du lịch Vĩnh Phúc, Hội chợ Thương mại Du lịch Tịnh Biên – An Giang, Hội chợ Du lịch quốc tế biển Nha Trang – Khánh Hòa, Tuần Văn hóa Du lịch đồng bằng sông Hồng – Hải Phòng, Festival Di sản Quảng Nam 2013, Hội chợ Thương mại và Du lịch tại Lạng Sơn, Tuần lễ Đại đoàn kết các dân tộc – Di sản văn hóa Việt Nam…

Hoạt động xúc tiến du lịch quốc tế cũng diễn ra sôi nổi với việc phối hợp với Hiệp hội Du lịch Việt Nam tổ chức thành công Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt Nam – Hà Nội 2013 từ 18/4 – 21 /4/2013; tổ chức đoàn của Thành phố tham gia Hội chợ Du lịch Quốc tế JATA và Lễ hội Việt Nam tại Tokyo – Nhật Bản từ ngày 10/9 – 16/9/2013; tham gia Hội nghị của Hội nghị thường niên năm 2013 của các tổ chức Hội đồng Xúc tiến Du lịch châu Á (CPTA) tại Malaysia; tổ chức khu gian hàng triển lãm bên lề và biểu diễn nghệ thuật truyền thống với sự tham gia của 6 thành phố, thủ đô các nước tại sự kiện Hội nghị toàn thể Mạng lưới Các thành phố lớn Châu Á Thế kỷ 21 (ANMC21) từ ngày 17/11 – 19/11/2013 tại Hà Nội…

Trong năm 2014, tại Hà Nội cũng sẽ diễn ra nhiều hoạt động xúc tiến du lịch quốc tế đáng chú ý như: Hội chợ Du lịch quốc tế Việt Nam – Hà Nội năm 2014 (VITM 1 – Hà Nội 2014); Hội nghị thường niên lần thứ XIII Hội đồng Xúc tiến Du lịch châu Á – CPTA và triển lãm du lịch bên lề hội nghị tại Đài Bắc – Đài Loan 9/2014; Hội nghị Ban điều hành TPO và Diễn đàn Du lịch TPO – Tổ chức Xúc tiến Du lịch các thành phổ Châu Á – Thái Bình Dương 10/2014.

Bên cạnh đó, ngành Du lịch thủ đô cũng sẽ tham gia Hội chợ du lịch Quốc tế ITB – Singapore vào tháng 10/2014; tổ chức chương trình xúc tiến điểm đến du lịch Hà Nội tại Tokyo (Nhật Bản) và Đông Âu (Ba Lan – Sec – Hungary).

Việc tổ chức cũng như tham gia thường xuyên các hội trợ triển lãm du lịch trong nước và các nước bạn cũng là một trong những cách thức hiệu quả tăng cường sự quan tâm của khách hàng thông qua các công cụ giới thiệu trực quan, trực tiếp, từ đó đánh giá, ghi nhận lại nhanh chóng các phản hồi của khách hàng về những sản phẩm du lịch đang được quảng bá tại Hà Nội. Tuy nhiên có thể thấy, để hoạt động xúc tiến thương mại du lịch đạt hiệu quả rõ nét hơn, cần có sự cộng tác chặt chẽ giữa Sở VHTT&DL Hà Nội, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội với các doanh nghiệp lữ hành trong cả nước để phát huy hiệu quả các công cụ khuyến mại thu hút khách hàng. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

2.3.4.3. Mạng Internet/Phương tiện truyền thông tương tác

Các trang web của Tổng cục du lịch, Bộ VHTT&DL, Sở VHTT&DL Hà Nội… được đưa vào hoạt động với mục đích chính là để cung cấp cho khách du lịch một cổng thông tin mới để tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá về các sản phẩm du lịch của Hà Nội. Bên cạnh đó, cung cấp các thông tin chính thức về sự phát triển của du lịch cả nước nói chung và du lịch thủ đô nói riêng.

Tuy nhiên, ngoài các website cung cấp thông tin, hình ảnh; các hoạt động quảng bá du lịch Hà Nội thông qua mạng Internet còn rất hạn chế, chủ yếu được thực hiện riêng lẻ, “mạnh ai nấy làm” từ các tổ chức du lịch, còn về các chương trình marketing điểm đến thì hầu như không có.

Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay, Internet là một công cụ có khả năng lan tỏa tuyệt vời. Hàng ngày có hàng tỷ người trên thế giới truy cập Internet để tìm hiểu thông tin, đánh giá, cập nhật, lựa chọn các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của họ, và du lịch cũng không nằm ngoài xu hướng ấy. Việc không có những chiến lược, hoạt động quảng bá điểm đến du lịch trên internet một cách đồng bộ, mà chỉ riêng lẻ do các doanh nghiệp tự thực hiện dẫn đến các chương trình e – marketing diễn ra thiếu trọng tâm, không khai thác được triệt để sức mạnh và lợi ích từ e – marketing.

2.3.4.4. Quảng cáo Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Là một trong những công cụ marketing được đánh giá là mạnh mẽ nhất, quảng cáo luôn cần nhận được sự quan tâm đặc biệt của bất cứ tổ chức nào trong việc quảng bá và xây dựng hình ảnh thương hiệu. Để một chiến dịch quảng cáo thành công, cần có sự đầu tư bài bản từ ngân sách, ý tưởng, nội dung đến quy mô thực hiện. Vì thực tế đã chứng minh, chỉ cần một chiến dịch quảng cáo thành công, sẽ đem lại sự thay đổi đáng kể trong tỷ lệ nhận diện thương hiệu, chất lượng hình ảnh, nâng tầm vị trí của một thương hiệu.

Tuy vậy, đây lại là mảng marketing được thực hiện một cách tương đối mờ nhạt trong các chương trình marketing điểm đến của Hà Nội.

Năm 2012, Sở VHTT&DL Hà Nội đã đề xuất xây dựng video quảng bá Du lịch Thủ đô, với thời lượng 30 giây, yêu cầu của clip là phải mang đầy đủ những nét đặc trưng mang dấu ấn của Thủ đô, đồng thời giúp cho du khách cảm nhận được sự hấp dẫn của Hà Nội thông qua cảnh quan, phong tục, văn hóa, những tiềm năng cần khám phá, những sản vật tiêu biểu và phải nêu bật được chủ đề: “Hà Nội – điểm đến du lịch hấp dẫn, an toàn, thân thiện”. Mục đích của đề xuất này là để tạo ra một quảng cáo ấn tượng, sau khi được hoàn thiện sẽ chiếu trên các phương tiện thông tin đại chúng, các kênh truyền hình quốc tế, sảnh các khách sạn, rạp chiếu phim, các sự kiện về du lịch trong nước và quốc tế. Tuy nhiên đề xuất này đã không có động thái rõ ràng sau đó.

Trong năm 2013, các hoạt động xúc tiến quảng cáo cho Hà Nội chỉ dừng lại ở một số hoạt động riêng lẻ, không mang tính hệ thống và định hướng rõ ràng; như tổ chức quảng bá du lịch Hà Nội trên một số kênh truyền hình tại Nga và trên Tạp chí du lịch trực tuyến Travel Mart in Asia, quảng bá du lịch Hà Nội tại các quốc gia như Hàn Quốc, Canada, Trung Quốc.

Các loại hình quảng cáo thường là những clip ngắn 30s giới thiệu về danh lam thắng cảnh Hà Nội, nội dung không thực sự đặc sắc và để lại nhiều dấu ấn.

Như vậy, với sự quan tâm chưa đúng mức dành cho quảng cáo, Hà Nội đang bỏ lỡ một vũ khí marketing mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển của du lịch Hà Nội. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

2.3.5. Về marketing phối hợp giữa các đối tác

Về liên kết hợp tác giữa nhà nước và các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, những tháng đầu quý I năm 2014 đã ghi nhận những hoạt động mang tính chuyển biến tích cực từ Sở VHTT&DL Hà Nội và UBNDTP Hà Nội. Hai sở ngành quan trọng nhất, giữ nhiệm vụ hàng đầu trong phát triển du lịch Hà Nội đã có những buổi tiếp xúc với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn thành phố nhằm lấy ý kiến đánh giá, phản hồi về các hoạt động du lịch đang được tiến hành, các khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong phát triển hoạt động, tập hợp các đóng góp của doanh nghiệp trong vấn đề phát triển thương hiệu điểm đến cho Hà Nội, qua đó đề ra những bước đi tiếp cho ngành du lịch với sự đồng bộ và nhất quán cao hơn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các hợp tác giữa NTO và doanh nghiệp lữ hành khu vực tại Hà Nội mới chỉ dừng lại ở các hội thảo, còn từ trước đến nay các hoạt động quảng bá du lịch của doanh nghiệp và NTO không có nhiều sự gắn kết với nhau. Ví dụ như mỗi doanh nghiệp sở hữu một logo du lịch Hà Nội khác nhau, không liên quan đến logo của Sở VHTT&DL Hà Nội, Sở chưa có các định hướng cụ thể cho các doanh nghiệp nhằm quảng bá thống nhất các đặc điểm nổi trội của du lịch của Hà Nội.

Đối với việc hợp tác phát triển du lịch giữa các điểm đến, theo Sở VHTT&DL Hà Nội, tính đến cuối năm 2013, Hà Nội là ký kết các văn bản hợp tác du lịch với 20 tỉnh thành khác trên các nước như Bắc Giang, Lạng Sơn, Đà Nẵng, Bình Định… qua đó thường xuyên quảng về hình ảnh du lịch Hà Nội tại các tỉnh và ngược lại. Đồng thời trao đổi, chia sẻ các thông tin, các kinh nghiệm trong việc phát triển du lịch hiệu quả. Bên cạnh đó, Sở cũng tiến hành ký kết nhiều văn bản hợp tác du lịch với các địa điểm du lịch quốc tế như phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch của 7 quốc gia (Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Cu Ba, Lào, Campuchia, Myanmar), phối hợp liên kết phát triển du lịch Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc), Luông-phra-băng (Lào), Tây Ban Nha, Nhật, Hàn Quốc, Pháp… Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Trong xu hướng phát triển hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, các chương trình quảng bá đơn lẻ, độc lập đã không còn phát huy kết quả thực sự nổi trội. Thay vào đó, marketing điểm đến du lịch đòi hỏi sự kết hợp, hợp tác chặt chẽ hơn giữa các bên.

2.4. Đánh giá hiệu quả của các chương trình marketing điểm đến đã được thực hiện

2.4.1. Đánh giá hiệu quả bằng phương pháp định tính

Theo đánh giá của Sở VHTT&DL Hà Nội trong buổi họp tổng kết cuối năm 2013, năm 2013 được đánh giá là một năm phát triển của ngành du lịch Hà Nội. Du lịch Thủ đô tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tốt cả về lượng khách du lịch quốc tế và nội địa, điều này cho thấy Hà Nội đang là điểm đến du lịch hấp dẫn, được ưa chuộng. Hà Nội cũng đã đón nhận hàng loạt các danh hiệu như: Hà Nội được xếp là 1 trong 10 điểm đến du lịch hấp dẫn nhất châu Á do tạp chí du lịch Smart Travel bình chọn; xếp ở vị trí thứ 8 trong số 10 điểm du lịch đang lên của thế giới năm 2013 theo kết quả bình chọn của trang web du lịch nổi tiếng thế giới TripAdvisor…

Tổng kết các đánh giá của khách du lịch thông qua khảo sát ECFTSQH cho thấy:

Về chất lượng các sản phẩm du lịch tại Hà Nội: 52,5% du khách được phỏng vấn đồng ý rằng hệ thống di tích lịch sử, văn hóa của Hà Nội rất đa dạng và phong phú. 44,5% cho rằng Hà Nội có bề dày văn hóa truyền thống, 54,2% cho rằng Hà Nội có môi trường hòa bình, ổn định. Tuy nhiên, chỉ có 18,3% cho rằng các sản phẩm du lịch hiện tại hấp dẫn, tạo cảm giác thích thú, thu hút. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Về chất lượng nơi cư trú: 36,1% cho rằng cơ sở vật chất tại nơi họ ở đạt chất lượng tốt, chỉ có 14% du khách có đánh giá không tốt. Tuy nhiên về chất lượng phục vụ, có hơn 36% du khách cho rằng phục vụ tại các cơ sở lưu trú hiện nay quá tệ. Con số này còn đáng lo ngại hơn ở mảng dịch vụ ăn uống, khi có tới 72% khách du lịch được hỏi cho rằng chất lượng vệ sinh ăn uống tệ đến rất tệ, đối với phong cách phục vụ, tỷ lệ khách hàng không hài lòng lên tới 78%.

Các số liệu trên cho thấy, mặc dù được các tạp chí du lịch uy tín liên tục xếp ở thứ hạng cao, tuy nhiên, thực chất tại Hà Nội, các sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ chưa thực sự làm du khách hài lòng. Điều này cho thấy hiệu quả định tính không mấy khả quan của các chương trình marketing điểm đến du lịch đã được thực hiện tại Hà Nội.

2.4.2. Đánh giá hiệu quả bằng phương pháp định lượng

2.4.2.1. Số lượng khách du lịch đến Hà Nội

Biểu đồ 2.2. Lượng khách du lịch đến Hà Nội qua các năm

Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy được, số lượng lượt khách du lịch tới Hà Nội tăng liên tục qua các năm, là xu hướng chung cho cả khách du lịch nội địa và quốc tế.

Với việc tổ chức thành công Đại lễ và Năm Du lịch quốc gia 2010, Hà Nội đã đón khoảng 1,2 triệu lượt khách quốc tế và 10,6 triệu lượt khách nội địa trong năm 2010. Năm 2011, Sở VHTT&DL Hà Nội cho biết lượng khách quốc tế đến Hà Nội đạt gần 1,9 triệu lượt khách, khách nội địa đến Hà Nội ước đạt 11,66 triệu lượt khách. Năm 2012, tổng lượt khách du lịch đến Hà Nội tăng lên 14,4 triệu lượt, trong đó có 2,1 triệu lượt khách quốc tế. Trong năm 2013, trên 16,5 triệu lượt du khách đã đến Hà Nội, trong đó số lượng khách du lịch quốc tế tiếp tục tăng trường cao, đạt 2.580.900 lượt khách, tăng 22,9%, khách nội địa ước đạt 13.997.800 lượt, tăng 13,82%. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Ngày 20/12/2013, Sở VHTTDL Hà Nội đã tổ chức sự kiện đón vị khách quốc tế thứ 2.500.000 đến Hà Nội năm 2013 để đánh dấu sự kiện tăng trưởng ấn tượng của du lịch Thủ đô, lần đầu tiên khách quốc tế vượt qua mốc 2,5 triệu lượt.

Trong quý I năm 2014, sở VHTT&DL cho biết, tổng lượng khách quốc tế đến Hà Nội vẫn tiếp tục tăng, đạt trên 705.000 lượt, tăng 15% và 4,87 triệu lượt khách nội địa, tăng hơn 8% so với cùng kỳ năm trước. Trong năm 2014, Hà Nội đặt mục tiêu cán mốc 3 triệu lượt khách quốc tế tới tham quan, du lịch và nghỉ dưỡng tại Hà Nội.

2.4.2.2. Tỷ lệ tăng trưởng lượng khách của một số thị trường mục tiêu

Năm 2013, trong tổng số lượng khách nước ngoài đến tham quan du lịch tại Hà Nội, một số thị trường khách trọng điểm đến Hà Nội tăng đáng kể như: Khách Nhật Bản ước đạt 185.680 lượt tăng 11,7%, khách Hàn Quốc ước đạt 135.953 lượt tăng 56,9% khách úc ước đạt 160.787 lượt tăng 22,5%, khách Đài Loan ước đạt 106.747 lượt tăng 16,3%, khách Mỹ ước đạt 09,6%, khách Anh đạt 99.252 tăng 26,4%.

2.4.2.3. Tăng trưởng của doanh thu du lịch tại Hà Nội

Bên cạnh đó, doanh thu du lịch của Hà Nội cũng có sự tăng trưởng rõ rệt. Năm 2010, sau sự kiện Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, doanh thu du lịch của Hà Nội đạt trên 27000 tỷ đồng. Tới năm 2012, con số này là trên 31000 tỷ đồng và cuối năm 2013, tổng thu về du lịch đạt 38.500 tỉ đồng, tăng 20,31% so với năm 2012.

2.4.2.4. Thời gian lưu trú của khách du lịch

Sự tăng trưởng về lượng khách du lịch có thể nhận thấy rõ qua các năm, tuy nhiên, một chỉ tiêu cho thấy tính thiếu bền vững của các số liệu du lịch Hà Nội, đó là thời gian lưu trú của khách du lịch.

Theo Sở VHTT&DL Hà Nội, có tới 40% số lượng khách tới Hà Nội vì coi đây là nơi chuyển tiếp để di chuyển tới địa điểm khác, lượng khách này không lưu trú ở Hà Nội quá 1 ngày. 80% trong tổng số lượng khách thực sự du lịch tại Hà Nội không lưu trú ở đây quá 2 ngày vì không biết nên đi đâu. Điều này cho thấy sự thiếu hợp lý trong việc thiết kế và tổ chức các tour du lịch tại Hà Nội, chưa khai thác được thế mạnh về hệ thống sản phẩm du lịch. Bên cạnh đó, sự hời hợt trong quảng bá cũng khiến du khách khó nắm bắt thông tin của các địa điểm có thể ghé thăm. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

2.4.2.5. Tỷ lệ khách hàng muốn quay lại

Theo khảo sát ECFTSQH, trong 120 khách du lịch nội địa, có 86 khách du lịch muốn quay trở lại Hà Nội, chiếm tỷ lệ 71,67%. Đối với khách du lịch quốc tế, con số này là 76/116 chiếm 65,51%. Các số liệu này không phải là quá thấp, tuy nhiên nó phản ánh, Hà Nội vẫn không đủ sức hấp dẫn với 30% lượng du khách nội địa và 35% với du khách quốc tế. Con số này cũng cho thấy sự đòi hỏi khắt khe hơn của khách quốc tế đối với một điểm đến du lịch.

2.5. Nhận xét

2.5.1. Ưu điểm

Các chương trình marketing điểm đến được triển khai trên nhiều lĩnh vực: Phát triển sản phẩm du lịch (Di tích lịch sử, văn hóa; danh thắng thiên nhiên; ẩm thực; làng nghề truyền thống).

Các kết quả định lượng cho thấy, nếu tham chiếu trên chính Hà Nội qua các năm, có thể thấy được xu hướng tăng trưởng rõ nét về cả số lượng khách du lịch (trung bình tăng 20% khách nội địa, 14% khách quốc tế qua các năm), doanh thu du lịch (trung bình tăng 18% trong 3 năm trở lại đây) và tỷ lệ khách du lịch tại các thị trường trọng điểm.

2.5.2. Hạn chế

Các chương trình triển khai còn rời rạc, chưa có tính đồng bộ. Qua tổng hợp các chương trình marketing điểm đến có thể thấy, tại mọi khía cạnh, đều có các chương trình đang được triển khai, nhưng rất lẻ tẻ. Ví dụ như về sản phẩm du lịch, tập trung tu bổ 3/600 khu di tích đang xuống cấp, phát triển ẩm thực, tuy nhiên về ý thức con người và chất lượng phục vụ thì hoàn toàn chưa được đề cập. Về các chiến lược marketing, chỉ tập trung chủ yếu ở mảng xúc tiến thương mại, hai mảng lớn là quảng cáo và internet triển khai rất hời hợt. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Tiếp theo, chất lượng các sản phẩm du lịch vẫn tiếp tục xuống cấp, tỷ lệ khách du lịch không hài lòng với thái độ phục vụ và độ hấp dẫn của sản phẩm du lịch ở mức cao. Gần 80% khách hàng không hài lòng với thái độ phục vụ của Hà Nội và chỉ có trên 18% thấy rằng sản phẩm du lịch của Hà Nội hấp dẫn, cuốn hút.

Hơn nữa, hiện tại, các chương trình marketing đang bỏ qua nhiều yếu tố quan trọng của marketing điểm đến du lịch như xây dựng bộ nhận diện thương hiệu hay tiến hành định vị thương hiệu điểm đến.

Các tình trạng tiêu cực gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hình ảnh thương hiệu du lịch Hà Nội, như nâng giá tùy tiện, bắt chẹt du khách, hay việc rác thải xuất hiện khắp nơi trên thành phố vẫn chưa có hướng giải quyết hiệu quả.

Các con số tăng trưởng chưa phản ánh được thực chất, khi thời gian lưu trú của khách du lịch còn quá ngắn.

Thêm vào đó, phương pháp giới thiệu quảng bá sản phẩm du lịch chưa khai thác được triệt để tiềm năng của sản phẩm du lịch Hà Nội, cách xây dựng, thiết kế tour chưa hợp lý khiến khách du lịch không thể kéo dài thời gian lưu trú, thời gian lưu trú trung bình của khách du lịch tại Hà Nội là 2 ngày, quá ngắn so với tiềm năng sẵn có.

Cuối cùng, tốc độ tăng trưởng hiện chưa tương xứng với tiềm năng của một thủ đô. Là thủ đô – trung tâm chính trị văn hóa giáo dục của các nước, mà so với các đối thủ cạnh tranh khác trong cả nước, như Hạ Long, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Thành phố Hồ Chí Minh… sự đầu tư, xây dựng và thực hiện các chương trình marketing điểm đến du lịch Hà Nội vẫn còn khá mờ nhạt chứ chưa cần so sánh với thủ đô các nước bạn như Bangkok (Trung bình số lượng khách quốc tế hàng năm đến Bangkok xấp xỉ 10 triệu lượt người), Kuala Lumpur (Trung bình 8,9 triệu lượt khách quốc tế đến du lịch hàng năm), Singapore (số lượng khách du lịch tới Singapore năm 2013 là 14,8 triệu lượt) (nguồn số liệu từ tổng cục du lịch các nước). Như vậy, con số 2,5 – 3 triệu lượt khách du lịch đến với Hà Nội còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của một thủ đô nghìn năm văn hiến.

2.5.3. Nguyên nhân Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức: Mặc dù, được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghiệp không khói nhưng du lịch Hà Nội chưa được xếp vào vị trí nào trong tổng thể nền kinh tế cũng như chưa định ra được mức độ ưu tiên. Các vấn đề được ưu tiên cơ bản tại Hà Nội vẫn là phát triển hạ tầng giao thông, đô thị, xây dựng, còn về bản chất, khách du lịch đến Hà Nội chủ yếu vẫn là do “hữu xạ tự nhiên hương” chứ chưa có được sự quan tâm đúng mực. Các hoạt động marketing điểm đến tuy đa dạng, nhưng riêng lẻ, chưa phải là các chiến lược tổng hợp được xây dựng một cách có tầm nhìn và khai thác được triệt để tiềm năng du lịch của Hà Nội.

Chưa có các kế hoạch tổng thể và lộ trình bài bản: Như đã phân tích ở trên, các hoạt động hiện nay mới chỉ mang tính chắp vá, chính vì các chương trình được thực hiện theo kiểu hỏng đâu sửa đó, mà du lịch Hà Nội đang khuyết nhiều mảng rất quan trọng góp phần lớn vào sự thành công của thương hiệu điểm đến du lịch.

Khoảng cách lớn từ các nghị quyết được đưa ra tới thực hiện các nghị quyết đó trên thực tế: Không ít các nghị quyết, đề xuất, xin ý kiến chỉ đạo được đưa ra nhằm phát triển du lịch Hà Nội, nhưng sau đó chỉ nằm trên giấy tờ và không được đưa vào thực tiễn. Theo ông Lưu Đức Kế, Giám đốc Công ty lữ hành Hanoitourist: “Hà Nội có nhiều nghị quyết, quyết định phát triển du lịch nhưng có lẽ cần ra một nghị quyết thực hiện các nghị quyết đã ban hành. Bởi vì, sau khi thành phố ban hành nghị quyết thì việc thực thi của các cấp ngành lại có nhiều vấn đề. Vì vậy, từ chỉ đạo tầm cao của Ủy ban Nhân dân thành phố cho đến các ban, ngành liên quan cần phải xuyên suốt, nhìn đúng cách, hiểu đúng cách về du lịch mới được.

Kết luận: Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

Từ sự kiện chuẩn bị cho đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội đến nay, ngành du lịch cũng đã ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực trong các hoạt động marketing điểm đến cho du lịch Hà Nội, nhiều hoạt động cụ thể đã được đi vào thực hiện. Các hoạt động đa dạng thuộc nhiều nội dung và bước đầu ghi nhận sự phát triển đều đặn của các chỉ tiêu định lượng như số lượng khách du lịch, doanh thu du lịch của Hà Nội, tăng trưởng qua các năm.

Tuy nhiên, đi sâu vào nghiên cứu các chương trình marketing điểm đến đang được thực hiện, thực trạng cho thấy, các chương trình hiện nay chủ yếu được thực hiện riêng lẻ, theo hướng nhận ra khuyết điểm ở đâu sửa ở đó chứ không đi theo một lộ trình xuyên suốt. Chính vì vậy, có thể nói chung là các chương trình này chưa đáp ứng được hết nhu cầu phát triển của marketing cho điểm đến, bỏ qua nhiều công cụ marketing quan trọng, tập trung chủ yếu ở những hoạt động quản trị và quảng bá quen thuộc, được thực hiện từ trước đến nay (như hội chợ du lịch xúc tiến thương mại).

Kết quả tất yếu, nhiều tồn tại của du lịch Hà Nội vẫn chưa tìm được hướng khắc phục, như các vấn nạn về môi trường, giá cả, xâm hại di tích, gây tác động tiêu cực đến hình ảnh du lịch Hà Nội trong tâm trí khách hàng.

Để tạo được sự thay đổi hiệu quả trong sự phát triển của du lịch Hà Nội, các nhà quản trị phải tái nghiên cứu, cấu trúc, rà soát lại các thực trạng của Hà Nội, từ đó tiến hành từng bước các chương trình marketing điểm đến tổng thể, đi kèm với các hoạt động nhằm đưa thêm nhiều trách nhiệm hơn cho các doanh nghiệp và người dân tại Hà Nội trong việc xây dựng một thương hiệu điểm đến mạnh mẽ, bền vững. Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải pháp marketing nhằm phát triển du lịch Hà Nội

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng áp dụng marketing điểm đến du lịch Hà Nội […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993