Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới và tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Nội dung chính

I: HOẠT ĐỘNG MARKETING ĐA CẤP TRÊN THẾ GIỚI

Marketing đa cấp trên thế giới đã ra đời gần 100 năm nay, mặc dù trước đây có rất nhiều dư luận, điều tiếng nhưng qua thời gian, marketing đa cấp đã chứng tỏ được sự hiệu quả trong bán hàng và đóng góp to lớn cho nền kinh tế thế giới.

Theo thống kê của Hiệp hội các quốc gia kinh doanh theo mạng – marketing đa cấp, các quốc gia có áp dụng phương thức marketing đa cấp có doanh thu lên tới con số hàng chục tỷ đô la Mỹ và số người tham gia đạt tới hàng chục nghìn, thậm chí hàng triệu người tham gia.

Bảng 2: Thống kê các quốc gia điển hình áp dụng phương thức marketing đa cấp

Theo thống kê trên, có thể thấy ngoài các nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ (doanh thu 30,8 tỷ đô la Mỹ với 15.000.000 người tham gia), Nhật Bản (doanh thu 20,39 tỷ đô la Mỹ với 2.700.000 người tham gia), Đức (doanh thu 8,297 tỷ đô la Mỹ với 713.537 người tham gia), Vương quốc Anh (3,564 tỷ đô la Mỹ cùng 419.500 người tham gia), Mexico (doanh thu 3.986 tỷ đô la Mỹ với 1.900.000 người tham gia) thì các nền kinh tế châu Á cũng là địa điểm lý tưởng để marketing đa cấp phát triển vượt bậc, điển hình như Hàn Quốc (9 tỷ đô la Mỹ doanh thu với 3.187.933 người tham gia, Malayxia (2,06 tỷ đô la Mỹ doanh thu với 4.000.000 người tham gia) và Đài Loan (1,7 tỷ đô la Mỹ với 4.530.000 người tham gia). Điều đó chứng tỏ, các nền kinh tế ở khu vực châu Á cũng nhanh nhạy nắm bắt xu hướng của thị trường, mau chóng áp dụng và có được những thành quả nhất định.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Thuê Viết Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Marketing

1. Tăng trưởng về doanh số Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Cũng theo thống kê của Hiệp hội các quốc gia kinh doanh theo mạng (WFDSA), doanh số bán lẻ và lượng người tham gia ngày càng gia tăng lên theo từng năm.

Như ta có thể thấy trên đồ, trong vòng 9 năm (2014-2023), doanh thu từ marketing đa cấp đã tăng lên đến 30% từ 82.87 tỷ đô la Mỹ (năm 2014) lên tới 114 tỷ đô la Mỹ năm 2023. Hàng năm marketing đa cấp đều có sự tăng trưởng khá đều đặn trung bình 5,1%/năm. Điều đó chứng tỏ ngành nghề này mang lại không ít lợi nhuận và doanh thu cho nền kinh tế các quốc gia trên thế giới.

2. Tăng trưởng về số lượng người tham gia

Bên cạnh sự tăng trưởng về doanh thu là sự tăng trưởng về lượng phân phối viên tham gia vào các công ty marketing đa cấp trên thế giới.

Số lượng người tham gia vào hệ thống marketing đa cấp trên toàn thế giới ngày càng tăng cao. Theo như biểu đồ ta có thể thấy, từ năm 2014 tới nay số lượng phân phối viên tăng từ 33,6 triệu người (năm 2014) lên tới 62,7 triệu người (năm 2023) chứng tỏ ngày càng có nhiều người quan tâm và thử sức với mô hình mới mẻ này.

Ngày nay, vai trò quan trọng của mô hình MLM trong nền kinh tế toàn cầu đã được thừa nhận rộng rãi. Báo chí kinh doanh đưa tin không ngớt về những thành công trong lĩnh vực này. Công chúng xem MLM như một giải pháp cho vấn đề việc làm – một trong những vấn đề rất nóng của xã hội mọi thời đại. Khác với doanh nghiệp MLM trước kia, các doanh nghiệp làn sóng thứ tư đã hòa nhập vào thế giới doanh nghiệp nói chung; và cùng với Thương mại điện tử, MLM đang tạo thành một “làn sóng mới” trong thế giới doanh nghiệp hôm nay.

II: HOẠT ĐỘNG MARKETING ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

1. Quá trình thâm nhập và phát triển của marketing đa cấp tại Việt Nam

Năm 2016 là năm đánh dấu sự gia nhập thị trường chính thức của Marketing đa cấp xâm nhập vào thị trường Việt Nam với sự tiếp thị sản phẩm của công ty Nikken. Từ đó đến nay, marketing đa cấp đã phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam với số lượng người tham gia ngày càng lớn.

Năm 2016 mới chỉ có 1-2 công ty kinh doanh đa cấp. Số lượng các công ty tăng nhanh dần đều qua các năm, và hiện nay theo thống kê của cục Quản lý Cạnh tranh, Bộ Công thương, có 25 công ty Marketing đa cấp đang hoạt động trên thị trường Việt Nam. So với các hình thức kinh doanh khác ở Việt Nam thì số lượng các công ty có tiến hành Marketing đa cấp còn ít, nhưng mạng lưới người tham gia của mỗi công ty kinh doanh đa cấp lại không hạn chế trải khắp các địa phương với mọi lứa tuổi và trình độ khác nhau. Vì vậy, phương thức kinh doanh đa cấp vào Việt nam đã giải quyết được việc làm cho nhiều lao động, tạo cơ hội cho những người trong và ngoài độ tuổi lao động chưa có việc làm được làm việc.

Hầu hết những công ty tiến hành Marketing đa cấp ở Việt Nam mới chỉ đặt trụ sở chính tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những nơi dân cư đông đúc, đời sống khá cao và nhu cầu làm việc lớn. Theo đà phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay, chắc chắn trong thời gian tới, kinh doanh đa cấp sẽ vươn tới các tỉnh thành trong cả nước, đưa việc làm đến nhiều lao động hơn.

Tuy nhiên, trong những năm đầu kể từ khi Marketing đa cấp có mặt tại Việt Nam, đã có nhiều vụ tai tiếng liên quan đến những kiện tụng của khách hàng và nhà phân phối của một số công ty đã lợi dụng phương thức kinh doanh này để kinh doanh bất chính. Vụ việc của Thế Giới Mới, Sinh Lợi, Vision…. đã xuất hiện với tần số dày đặc trên các mặt báo kèm theo những lời cảnh báo, tiêu biểu như “Sinh lợi thành sinh hại”, “Chân tướng Vision”, “Thế Giới Mới lừa đảo, chiếm đoạt tài sản hơn 6 tỷ đồng”, “Bán hàng đa cấp: ngày càng nhiều nạn nhân”. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Các vấn đề gây bức xúc cho xã hội nhất trong thời gian qua (và đến này vẫn còn tồn tại) là: Tình trạng bán sản phẩm đến tay người tiêu dùng cao gấp nhiều lần so với giá vốn (Ví dụ tổng giá trị sản phẩm do công ty Lô Hội nhập về theo tờ khai Hải quan trong 3 tháng là 114,444 USD nhưng doanh số bán hàng trong thời gian này của doanh nghiệp lên tới 4 triệu USD, chênh lệch từ 4.000 – 5.000%4 ; tình trạng nhập nhằng giữa thực phẩm dinh dưỡng và thuốc, cho đại diện bán hàng hưởng hoa hồng cao (60%) nhưng thực chất là “móc túi” họ và người tiêu dùng như Vision; bắt Đại diện bán hàng phải đặt cọc khoản tiền lớn sau đó “ẵm tiền trốn đi” như Thế Giới Mới; hoặc bắt Đại diện bán hàng mua một số lượng hàng lớn mới được gia nhập công ty như NoNi (phải mua 1 thùng nước trái nhãn NoNi với giá 2,4 triệu đồng để bán ra với giá 3,2 triệu đồng….) Rõ ràng, các công ty Marketing đa cấp trên đã lợi dụng việc chúng ta chưa có khung pháp lý chặt chẽ để biến tướng hoạt động này.

2. Nhận thức của người dân Việt Nam về marketing đa cấp

Thời gian gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là báo chí lên án rất mạnh mẽ Marketing đa cấp bởi những biểu hiện không lành mạnh của hoạt động kinh doanh này. Dư luận hoang mang lo sợ không phân biệt được đâu là hoạt động Marketing đa cấp chân chính, đâu là hoạt động bất chính. Bên cạnh những người ủng hộ Marketing đa cấp tại Việt Nam, do nhận thức chưa đầy đủ và toàn diện về tình hình phát triển của Marketing đa cấp, một số người đã cho rằng:

Marketing đa cấp là hoạt động kinh doanh bất chính vì bản chất của nó là lừa đảo. Kênh thông tin để người dân tiếp cận với hình thức kinh doanh đa cấp chủ yếu qua phương tiện thông tin đại chúng mà như chúng ta biết các phương tiện thông tin đều đăng tải các công ty kinh doanh bất chính do đó người dân không phân biệt đâu là Kinh doanh đa cấp chân chính đều là bất chính do đó họ đều có một ý niệm chung rằng Kinh doanh đa cấp là lừa đảo. Cần nhận thấy ngay nhận định này là không chính xác vì Marketing đa cấp là một phương thức kinh doanh tiến bộ, là một công cụ phục vụ cho kinh doanh. Cũng như bất kỳ phương thức kinh doanh nào khác, nếu mục đích của người sử dụng là làm ăn chân chính thì hoạt động kinh doanh này là tiến bộ, có ích cho xã hội và ngược lại. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Hình thức tuyển người tham gia không minh bạch. Việc sử dụng các hành vi không minh bạch để lôi kéo người khác tham gia như chỉ ra các khoản “siêu lợi nhuận” không có cơ sở; trả tiền thưởng chỉ chủ yếu từ việc giới thiệu người khác tham gia, dụ dỗ mua chuộc hay sử dụng các thủ đoạn bất chính khác để lôi kéo người tham gia từ doanh nghiệp khác đến với

Doanh nghiệp mình. Đây là một hiện tượng có thực và Doanh nghiệp Marketing đa cấp và những người tham gia cần có những biện pháp xử lý, xử phạt những phân phối viên có những biểu hiện sai trái để trách làm hại uy tín của Doanh nghiệp và những nhà phân phối khác.

  • Chất lượng, công dụng sản phẩm được quảng cáo rất sai lệch so với thực tế. Chất lượng, công dụng của sản phẩm trong Marketing đa cấp được quảng cáo truyền miệng từ người này sang người khác nên chắc chắn không trách khỏi một bộ phận tham gia thổi phồng sản phẩm lên nhiều lần với mục đích bán được hàng. Ví dụ như: Nước ép Noni – cuộc cách mạng về sức khoẻ; Herbalife – vì sức khoẻ và sắc đẹp thực phẩm dưỡng sinh số 1 Hoa Kỳ…. Thực chất, đây chỉ là thực phẩm chức năng, có tác dụng bồi bổ và nâng cao sức khoẻ, không thể trị được bách bệnh. Do đó, người nghe cần tỉnh táo, tiếp cận thông tin có chọn lọc để tránh tình trạng bị chính người thân quen của mình lừa.
  • Giá bán của sản phẩm cao gây thiệt hại cho người tiêu dùng
  • Bản chất của marketing đa cấp là bán sản phẩm lòng vòng trong hệ thống những người tham gia mà không chú ý đến việc cung cấp sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng.

3. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động marketing đa cấp Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Marketing đa cấp mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong mấy năm gần đây nhưng thực tiễn hoạt động kinh doanh marketing ở Việt nam đang diễn biến phức tạp, gây ra nhiều tranh cãi gay gắt trong xã hội về việc thừa nhận hay không thừa nhận sự tồn tại của nó cũng như các hậu quả phát sinh cho xã hội. Trong thời gian đầu khi hoạt động marketing đa cấp mới du nhập vào Việt Nam, do chưa có khung pháp lý điều chỉnh cũng như sự quản lý về mặt nhà nước, hoạt động Marketing đa cấp tại Việt Nam đã phát triển theo chiều hướng tự phát. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng kẽ hở để thực hiện phương thức kinh doanh lừa dối khách hàng, lừa dối những người tham gia, gây tổn hại về mặt vật chất cho họ và tạo những phản ứng tiêu cực trong xã hội.

Cho đến cuối tháng 4 năm 2021, vẫn chưa có văn bản pháp luật cụ thể nào điều chỉnh hoạt động marketing đa cấp ở Việt Nam, chỉ có một số quy định điều chỉnh những vấn đề chung của kinh doanh có thể áp dụng đối với hình thức kinh doanh mới mẻ này như đăng ký kinh doanh, giao kết hợp đồng, vấn đề chất lượng sản phẩm, nhãn hàng hoá, quảng cáo, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng,… Tuy nhiên, những quy định này nằm rời rạc trong các văn bản khác nhau và không hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của marketing đa cấp.

Cho đến cuối năm 2021, sau gần 5 năm hoạt động Marketing đa cấp tiến hành tại thị trường Việt Nam, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 110/2021 ngày 24/08/2021 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Đây là cơ sở để điều chỉnh một số hoạt động bán hàng đa cấp, mối quan hệ giữa người tham gia và Doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Theo đó những hành vi: yêu cầu người tham gia phải mua hàng hoá để được quyền tham gia, người tham gia phải trả tiền gia nhập, trả phí đào tạo v.v…. đã bị cấm. Tuy nhiên, các quy định về chế tài xử phạt đối với các vi phạm chưa cụ thể và rõ ràng. Như vậy, hoạt động Marketing đa cấp ở Việt Nam thiếu sự quản lý, giám sát của Nhà nước trong thời gian khá lâu, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc lợi dụng nó để thực hiện hoạt động lừa đảo, chiếm dụng tiền của người tham gia. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Vấn đề quản lý nhà nước với hoạt động kinh doanh đa cấp còn rất yếu và thiếu.

Quản lý đối với doanh nghiệp: Cơ quan có thẩm quyền quản lý doanh nghiệp thông qua đăng ký kinh doanh, các báo cáo của doanh nghiệp và thông qua kiểm tra, giám sát. Trước đây, các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp đều đăng ký kinh doanh với ngành hàng mua bán, ký gửi hàng hoá nhưng giấy tờ đăng ký kinh doanh lại không thể hiện nội dung kinh doanh đa cấp. Nhiều doanh nghiệp lách luật bằng cách nhập hàng từ nước ngoài về dưới dạng quà biếu rồi sau đó lại ngay lập tức bán ra thị trường nên nhà nước không thu được một khoản thuế nào từ hoạt động marketing đa cấp của các doanh nghiệp này.

Ngoài ra, quan hệ giữa phân phối viên và doanh nghiệp kinh doanh đa cấp được quy định trong hợp đồng là quan hệ hợp đồng đại lý tiêu thụ chứ không phải quan hệ lao động. Các văn phòng đại diện của các công ty Marketing đa cấp, theo luật, không được tiến hành các hoạt động kinh doanh. Trên thực tế, các văn phòng này thường đứng ra tổ chức mạng, quản lý mạng, tổ chức tập huấn kinh doanh. Như vậy, các doanh nghiệp này đã vi phạm pháp luật mà không bị xử lý.

Chính sự buông lỏng trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Marketing đa cấp đã dẫn đến tình trạng phát triển tự phát, lộn xộn và gây nhiều thiệt hại cho xã hội.

Quản lý của nhà nước đối với người tham gia kinh doanh đa cấp

Do đặc trưng của marketing đa cấp là chia sẻ thông tin truyền miệng từ người này sang người khác nên cả nhà nước và Doanh nghiệp đều không thể quản lý hoạt động của từng phân phối viên. Kết quả là nhiều phân phối viên đã thực hiện những hành vi quảng cáo gian dối, mang tính lừa đảo…. mà không bị xử lý.

Hoạt động marketing đa cấp của phân phối viên diễn ra thường xuyên, liên tục và mang lại thu nhập ổn định cho phân phối viên nhưng nhà nước không quản lý được hoạt động này. Nhiều phân phối viên có thu nhập cao nhưng lại tránh được khoản thuế thu nhập cho nhà nước, gây nên sự thiếu công bằng. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Tóm lại, marketing đa cấp ngày càng phát triển ồ ạt ở Việt Nam nhưng thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, các doanh nghiệp cũng chưa có các biện pháp hiệu quả để quản lý phân phối viên nên đã dẫn đến tình trạng quá đông người tham gia mạng lưới, gây lộn xộn, khó kiểm soát.

4. Phân tích hoạt động marketing đa cấp của một số công ty tại Việt Nam

4.1. Công ty Avon Products Incorporation (AVON)

4.1.1. Giới thiệu chung về công ty

  • Avon toàn cầu

Bắt đầu từ câu chuyện của một người đàn ông với những ước mơ cháy bỏng của mình – David H. McConnel – sinh năm 1858, luôn ước mong có thể thành lập một doanh nghiệp riêng cung cấp các sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng với giá cả hợp lý. Ước mong của David McConnel bắt đầu được thực hiện từ ý tưởng bán sách. Vào những năm của thập niên 80, Ông đã gặt hái được những thành công đáng kể từ việc bán sách trực tiếp đến từng hộ gia đình. Để khuyến khích việc mua hàng, Ông đã sử dụng nước hoa làm quà tặng cho khách hàng của mình. Dần dần, McConnel nhận ra rằng khách hàng của Ông yêu thích nước hoa hơn cả sách. Và Ông bắt đầu thành lập doanh nghiệp riêng mang tên Công Ty California Perfume (tại Hoa Kỳ), cung cấp nước hoa The Little Dot Perfumes trực tiếp cho người tiêu dùng vào năm 1986. Do cơ cấu ban đầu còn sơ khai nên David McConnel quán xuyến hầu hết các công việc chủ chốt như chế tạo nước hoa, kế toán, thủ quỹ, nhân viên hành chính,…

Với tư duy sáng tạo mang tầm vóc chiến lược, McConnel phát hiện ra rằng việc phụ nữ giới thiệu nước hoa trực tiếp cho nhau là phương cách kinh doanh hiệu quả nhất và Ông đã mời Bà P.F.E. Albee làm đại lý kinh doanh của mình. Albee thành lập trụ sở New Hampshire, tiến hành tuyển dụng các lực lượng bán hàng độc lập để khởi nghiệp kinh doanh, giới thiệu nước hoa The Little Dot Perfumes cho nữ giới, bắt đầu cuộc hành trình trao quyền kinh doanh cho nữ giới toàn cầu. Lúc bấy giờ, Albee là người phụ nữ tiên phong sử dụng tàu hỏa và xe ngựa kéo để đi giới thiệu sản phẩm cho nữ giới vùng Đông Bắc (Hoa Kỳ) trước rất nhiều năm khi phụ nữ Hoa Kỳ được quyền đi làm ở các công sở cũng như dành được quyền bầu cử. Chính sự nhiệt huyết và lòng trung thành của Albee đã giúp Bà chinh phục được mọi khó khăn thử thách trong suốt hành trình trao quyền kinh doanh cho nữ giới toàn cầu. Albee đã trở thành một huyền thoại và niềm tự hào của rất nhiều đại diện bán hàng Avon trong suốt mọi thời đại.

Vào năm 1928, tên gọi Công Ty California Perfume dường như mang tính nội địa quá so với phạm vi họat động bao phủ khắp 48 tiểu bang của Hoa Kỳ. Nhân chuyến viếng thăm nước Anh, David McConnel chợt nhận ra nét tương đồng của vùng đất Strattford-on-Avon – quê hương của danh hào nổi tiếng William Shakespeare với vùng đất nơi phòng thí nghiệm Suffern tọa lạc. Một dòng sản phẩm mới với tên gọi “Avon” đã ra đời vào năm 1929. Đến năm 1939, công ty chính thức đổi tên thành Công ty Mỹ Phẩm Avon “Avon Products, Inc” Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Sự phối hợp giữa các sản phẩm có chất lượng cao và hình thức kinh doanh bán hàng trực tiếp từ đó đến nay đã minh chứng rằng Avon luôn kiên định với những giá trị kinh doanh truyền thống. Đồng thời, Avon không ngừng phát triển và tiến xa hơn nữa trong các hoạt động kinh doanh của mình.

  • Avon Việt Nam

Tại Việt Nam, Avon chính thức có mặt vào tháng 04 năm 2020 – quốc gia thứ 12 tại Châu Á – Thái Bình Dương như một khẳng định cho chiến lược mở rộng kinh doanh của mình với mong muốn mang các sản phẩm của mình làm đẹp cho phụ nữ Việt Nam. Với 2 chi nhánh lớn tại Tp.HCMC & Hà Nội, Avon còn mở rộng mạng lưới các VPĐD/Trung tâm giao nhận hàng hóa trên khắp cả nước. Với chủng loại hàng hóa chất lượng cao, đa dạng và phong phú như các sản phẩm chăm sóc da, trang điểm, nước hoa và chăm sóc cá nhân, Avon tin tưởng sẽ giúp phụ nữ Việt Nam tô điểm nhan sắc của mình và làm đẹp thêm cho cuộc sống hiện tại. Đến với Avon, phụ nữ Việt Nam còn có nhiều cơ hội nghề nghiệp mà không cần vốn kinh doanh ban đầu, thời gian làm việc tự do và mức thu nhập cao.

Hiện tại, Avon Việt Nam có chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh và gần 30 văn phòng đại diện trên cả nước như Hải Phòng, Thái Nguyên, Đà Nẵng, Đà Lạt, Nha Trang, Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương, Kiên Giang, Tiền Giang… hiện đang nỗ lực phát triển thêm những VPĐD tại các tỉnh thành khác nhằm tạo điều kiện đưa sản phẩm của Avon đến gần hơn và nhanh hơn với người tiêu dùng. Đồng thời tạo cơ hội tạo thu nhập trên mọi miền đất nước Việt Nam.

Tương tự như hoạt động của Avon trên toàn thế giới, Avon Việt Nam tuân theo các cơ chế kiểm soát hệ thống và các chính sách của Avon toàn cầu nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các đại diện bán hàngĐL và người tiêu dùng, đồng thời nghiêm túc chấp hành mọi quy định của Nhà nước Việt Nam.

Avon Việt Nam đã xây dựng một nhà máy theo tiêu chuẩn Mỹ và Châu Âu. Nhà máy đặt tại Khu Công Nghiệp Việt Nam – Singapore, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương với tổng vốn đầu tư gần 3 triệu USD Mỹ. Nhà máy có khả năng sản xuất đầy đủ các chủng loại mỹ phẩm và hóa mỹ phẩm khác nhau với công suất ban đầu là 7 triệu đơn vị sản phẩm, trong tương lai sẽ nhanh chóng tăng công suất lên 15 triệu sản phẩm một năm.

4.1.2. Phân tích mô hình trả thưởng Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

  • Mô hình trả thưởng của công ty Avon là mô hình Một cấp (Unilevel).
  • Mô hình này đảm bảo lợi ích cho phân phối viên ở hai nguồn thu chinh sau:
  • Nguồn thu đầu tiên của phân phối viên là từ việc trực tiếp bán hàng (doanh số này tính trên giá catalogue). Có 4 mức sau đây:

Bảng 3: Chiết khấu dành cho phân phối viên của Avon

Giá trị tối thiểu của đơn hàng là 75.000 VNĐ. Hình thức trả hoa hồng đây phân phối viên mua hàng của công ty với các mức giá đã được chiết khấu như trên và bán với giá catalogue. Ngoài ra công ty còn có chế độ khuyến mãi, tặng thêm sản phẩm nếu giá trị đơn hàng đạt một mức nhất định để khuyến khích phân phối viên tăng giá trị đơn hàng của mỗi lần đặt hàng.

Nguồn thu thứ hai là việc hưởng hoa hồng từ mạng lưới phân phối viên do bản thân tạo dựng lên. Phân phối viên chỉ được hưởng phần hoa hồng này khi đạt được 1 trong 4 chức danh sau: trưởng nhóm, trưởng nhóm cấp cao, quản lý kinh doanh, quản lý cấp cao.

Cách tính hoa hồng:

Các đại diện bán hàng chỉ nhận được hoa hồng quản lý (trở thành cấp quản lý) khi đáp ứng đủ 3 điều kiện sau:

Đủ điều kiện về doanh số cá nhân (tổng doanh số bán hàng, chính là tổng giá trị các mặt hàng mua trên hóa đơn, với giá catalogue trừ đi giá trị hàng trả lại trong chu kỳ bán hàng). Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Đủ điều kiện về doanh số nhóm (tổng doanh số của tuyến 1,2,3) với giá catalogue trừ đi giá trị hàng trả lại cộng với doanh số cá nhân của trưởng nhóm.

Các cấp quản lý sẽ được trả hoa hồng theo mức phần trăm tương ứng với Giá trị tối thiểu các hóa đơn cộng dồn.

Giá trị hóa đơn cộng dồn = doanh số thuần (không bao gồm hàng mẫu, catalogue, bộ khởi động,…) đã trừ chiết khấu, hàng trả lại, nợ quá hạn và VAT.

Chi trả hoa hồng:

Chu kỳ bán hàng catalogue 1:

  • Cấp bậc quản lý sẽ được tính trên tổng doanh số chu kỳ 1, theo giá catalogue trừ hàng trả.
  • Hoa hồng được tính theo giá doanh số thuần của chu kỳ 1.

Chu kỳ bán hàng catalogue 2:

  • Công ty sẽ điều chỉnh giảm hoa hồng do trả hàng và nợ quá hạn của những đơn hàng do mua hàng của chu kỳ 1, xảy ra trong chu kỳ 2.
  • Nếu sau khi khấu trừ mà số chênh lệch vẫn còn âm thì công ty sẽ tiếp tục khấu trừ vào những chu kỳ bán hàng tiếp theo.

Ngoài ra công ty còn có chương trình trưởng nhóm dự bị, chương trình khuyến khích tuyển dụng để động viên các trưởng nhóm, trưởng nhóm cấp cao, quản lý kinh doanh và quản lý kinh doanh cấp cao mở rộng mạng lưới: Tặng thưởng bằng tiền mặt, thẻ cào điện thoại, danh hiệu cho những phân phối viên tuyển được người mới và người này có doanh số.

Như vậy, mô hình trả thưởng của công ty Avon là mô hình tầng kết hợp với mô hình ma trận 5×3.

  • Mô hình nhiều tầng được biểu hiện ở những đặc điểm sau:
  • Không giới hạn số người tham gia vào mạng lưới cấp 1 (không giới hạn chiều rộng, nhưng có sự giới hạn số cấp tuyến dưới để phân phối viên được nhận hoa hồng gián tiếp (có giới hạn chiều sâu). Trưởng nhóm, trưởng nhóm cấp cao được nhận hoa hồng gián tiếp từ mạng lưới cấp 1 và cấp 2 do mình tạo nê.
  • Doanh số bán hàng của phân phối viên càng nhiều thì hoa hồng (hoa hồng trực tiếp và gián tiếp) càng lớn.

Việc quy định mức doanh số tối thiểu và số cấp tuyến dưới để phân phối viên được nhận hoa hồng gián tiếp là rất khoa học. Nó hạn chế được tình trạng phân phối viên lười biếng, hoạt động kém hiệu quả nhưng thu nhập vẫn cao. Đồng thời, khuyến khích mọi người làm việc, hoạt động tích cực, nâng cao doanh số. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Mô hình ma trận 5×3 thể hiện ở những đặc điểm sau:

  • Phân phối viên được thăng cấp khi có thêm 5 người thuộc mạng lưới cấp 1.
  • Phân phối viên chỉ được nhận hoa hồng gián tiếp đến cấp thứ 3 do mình tạo ra.

4.1.3. Các quy định khác về chính sách bán hàng

Avon có những chính sách rất tích cực khác trong việc hỗ trợ các phân phối viên bán hàng như chính sách đổi trả hàng, chính sách mua hàng trả chậm, đa dạng hóa hình thức mua bán và trao đổi sản phẩm, thể hiện cam kết lâu dài của công ty trên thị trường Việt Nam.

  • Chính sách đổi trả hàng:
  • Đối với đại diện bán hàng đang hoạt động: Avon giải quyết trả hàng trong vòng 21 ngày kể từ ngày ra hóa đơn với điều kiện sản phẩm còn nguyên vẹn, chưa qua sử dụng.
  • Đối với đại diện bán hàng chấm dứt hoạt động: Avon giải quyết trả hàng trong vòng 30 ngày kể từ ngày ra hóa đơn với điều kiện sản phẩm còn nguyên vẹn, chưa qua sử dụng.
  • Chính sách mua hàng trả chậm.
  • Giới hạn tín dụng:

Bảng 4: Hạn mức tín dụng theo doanh số

Bảng 5: Thanh toán cho hình thức trả chậm

  • Quy định về mua hàng trả chậm Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.
  • Hạn mức tín dụng sẽ được xem xét vào đầu tuần mỗi tháng 1, tháng 4, tháng 7 và tháng 10 hàng năm.
  • Không chấp nhận mua hàng bằng tiền mặt trong điều kiện chưa thanh toán đơn hàng trả chậm tại chi nhánh.
  • Việc thanh toán phải hoàn tất trong vòng 21 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn.
  • Trường hợp nợ quá hạn sẽ không được mua hàng.

Nếu xảy ra hai lần nợ quá hạn, hạn mức tín dụng của đại diện bán hàng sẽ tự động giảm xuống mức 500.000 VNĐ dù đại diện bán hàng đang được hưởng mức tín dụng cao hơn. Nếu hạn mức tín dụng của đại diện bán hàng đang là 500.000 VNĐ và để xảy ra tình trạng trên, đại diện bán hàng sẽ mất quyền mua hàng trả chậm và phải bắt đầu trở lại quá trình được xét mua hàng trả chậm.

  • Quy định về nâng, hạ cấp bậc và chấm dứt hợp đồng
  • Nâng cấp bậc thành trưởng nhóm dự bị:
  • Tuyển được một đại diện bán hàng
  • Không có nợ quá hạn.
  • Phải ký hợp đồng trưởng nhóm.
  • Hạ cấp bậc quản lý bán hàng/ Chấm dứt hợp đồng

Nếu cấp bậc quản lý bán hàng không có doanh số cá nhận hoặc không đạt được cấp bậc đại diện bán hàng trong 3 chu kỳ catalogue liên tiếp thì sẽ bị hạ bậc thành đại diện bán hàng và tuyến dưới sẽ được chuyển lên cho cấp bậc quản lý phía trên.

Sau khi trở thành đại diện bán hàng phải tuân thủ theo chính sách chấm dứt hợp đồng như sau: Xóa tên ra khỏi danh sách đại diện bán hàng sau 3 chu kỳ không hoạt động. Xóa tên ra khỏi hệ thống sau 6 chu kỳ không hoạt động. Giữa chu kỳ 3-6, có thể phục hồi tư cách thành viên miễn phí (không thu phí đăng ký nếu đại diện bán hàng có đặt hàng).

4.1.4. Đánh giá hoạt động của Avon Việt Nam Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Một quan chức thuộc Sở thương mại TP HCM qua quá trình theo dõi hoạt động của các doanh nghiệp marketing đa cấp, đã đánh giá Avon là một tổng số hiếm những doanh nghiệp thực hiện tốt phương thức marketing đa cấp tại Việt Nam.

Avon đã đầu tư nhà máy sản xuất tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore với tổng vốn đầu tư là 3 triệu USD. Toàn bộ sản phẩm mà công ty đang phân phối đều được sản xuất trong nước (nguyên liệu nhập từ Phillipines) nên giá thành vừa phải và đặc tính sản phẩm phù hợp với khí hậu Việt Nam.

Điểm nổi bật đáng chú ý đầu tiên của Avon là trên mỗi cuốn Avon sản phẩm đều in rõ dòng chữ “Sản phẩm được đổi hoặc trả lại trong vòng ngày, kể từ ngày mua với điều kiện còn nguyên vẹn, chưa qua sử dụng”. Để trở thành đại diện bán hàng của Avon, khách hàng đóng một khoản phí là 100.000 VNĐ để dùng thử trước khi đi tư vấn cho khách hàng, và được tham gia các buổi huấn luyện nghiệp vụ (cách trang điểm, chăm sóc da). Sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký như vậy thì đại diện bán hàng sẽ được nhận các cuốn catalogue trong đó có đầy đủ hình ảnh các sán phẩm của công ty, giá thành sản phẩm và công dụng… Nếu đại diện bán hàng không có vốn cũng không cần phải mua hàng, chỉ cần giới thiệu catalogue đến bạn bè, người thân và khi có khách đặt mua hàng (theo mẫu trong catalogue) thì quay về công ty lấy hàng giao để kiếm thêm thu nhập.

Đại diện bán hàng của Avon chỉ được hưởng hoa hồng từ 20-30% doanh số bán hàng, trong khi giá thành sản phẩm của Avon thì rất thấp (từ 27.000 – 185.000 VNĐ/ sản phẩm).

Ngoài ra, nếu tuyển dụng được người tham gia vào nhóm mình thì đại diện bán hàng được quyền hưởng 7% doanh số bán hàng / người do mình trực tiếp tuyển, và từ 1-2% / người do cấp dưới mình tuyển. Như vậy, Avon chỉ tính hoa hồng cho mạng lưới bán hàng của mình ở mức độ 3 cấp.

Mỗi sản phẩm Avon bán ra đều có hóa đơn bán hàng (người mua chịu 10% thuế VAT), với các đại diện bán hàng được hưởng hoa hồng từ nhóm của mình thì đến kỳ lương sẽ bị giữ lại 5% để đóng thuế thu nhập cá nhân cho họ.

Với cách làm như vậy, dù mới có mặt tại Việt Nam cuối tháng 4/2020 vừa qua, hoạt động được gần 5 năm tại Việt Nam nhưng Avon đã phát triển được hơn 8.000 đại diện bán hàng, một đại diện bán hàng giỏi tại Đồng Nai đã đạt doanh số bán hàng 150 triệu đồng / tháng. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy vai trò của Doanh nghiệp trong marketing đa cấp là phải đảm bảo được việc cung cấp cho người tiêu dùng sản phẩm có giá thành rẻ (nhờ giảm được chi phí trả cho các khâu trung gian như khuyến mãi, quảng cáo,…) chứ không phải là tạo ra nhiều tầng lớp trung gian, với tỷ lệ hoa hồng cao để đội giá thành lên gấp nhiều lần. Người tiêu dùng phải được hưởng các quyền lợi chính đáng như quyền đổi, trả sản phẩm khi không vừa ý về chất lượng, được chăm sóc, tư vấn và hậu mãi tốt. Doanh nghiệp marketing đa cấp không vì mưu lợi trước mắt mà bắt đại diện bán hàng (những người có nhu cầu về việc làm) phải mua hàng hay “đặt cọc” một số tiền lớn.

4.2. Công ty TNHH Thương mại Lô Hội

4.2.1. Giới thiệu chung về công ty

Tập đoàn Forever Living Products Forever Living Products International. Inc. (FLP) được thành lập dựa vào ý tưởng của người sáng lập – Ngài Rex Maughan. Ông muốn hình thành một công ty đem lại nhiều mơ ước cho mọi người trong việc thiết lập cho bản thân mỗi người nguồn tài chính thoải mái. Từ ý tưởng lạ thường này đã hình thành nên một kế hoạch tiếp thị tuyệt vời. Kế đến là bắt đầu bằng một loạt sản phẩm độc nhất vô nhị mang lại hiệu quả tốt cho con người.

Forever Living Products International, Inc. – FLP được thành lập vào ngày 13/5/1978 tại Phoenix, Arizona… Ngay khi thành lập, công ty đã có mục tiêu rõ ràng là việc kinh doanh phát triển nhanh và đạt được thành công. Hiện nay, sau gần 30 năm (tính đến thời điểm 10-2008), sản phẩm của Công ty đã có mặt ở hơn 135 nước trên thế giới, với hơn 9,5 triệu nhà phân phối trên toàn cầu chính thức tham gia phân phối sản phẩm FLP. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Để đảm bảo uy tín cho công ty và các nhà phân phối của một công ty có nguồn sản phẩm lớn, công ty đã sở hữu các đồn điền trồng cây Lô hội. Hơn nữa, việc sở hữu các đồn điền Lô Hội đã cung cấp cho công ty các nguyên liệu cần thiết, và cũng như tạo điều kiện cho công ty trong việc kiểm tra sự trồng trọt và chất lượng cây Lô Hội của Forever Living Products.

Một bước đáng ghi nhớ là vào ngày 01/05/1981, công ty đã sở hữu nhà máy sản xuất Aloe Vera of America và hai bằng sáng chế thiết yếu trong việc làm ổn định chất gel Lô Hội. Quá trình sáng chế đã chứng minh rằng các sản phẩm Lô hội của công ty khi thành phẩm vẫn không mất đi những hiệu quả tốt của chất gel Lô Hội.

Việc phát triển của công ty vẫn tiếp tục. Công ty đầu tư dây chuyền sản xuất hàng tỷ đô-la và đội ngũ xe tải và xe kéo, tất cả để phục vụ cho nhu cầu của các nhà phân phối trên toàn thế giới.

Một phần rất quan trọng trong sự phát triển của công ty là việc thành lập một đội ngũ nghiên cứu và phát triển để đảm bảo độ tinh khiết của chất lượng sản phẩm cũng như sự hình thành các sản phẩm mới.

Với hơn 7.500 mẫu đồn điền Lô Hội ở Mỹ, Mexico và Cộng hòa Dominica, FLP là nhà trồng trọt, sản xuất và phân phối sản phẩm Lô hội lớn nhất trên thế giới. Với sự sở hữu các đồn điền Lô hội, công ty có thể kiểm soát những tiêu chuẩn cao trong môi trường trồng trọt hữu cơ, không có chất hoá học và thuốc trừ sâu. Những điều kiện gắt gao của công ty về chất lượng đảm bảo các bạn sẽ luôn có những sản phẩm Lô hội tinh khiết và chất lượng tốt nhất ở khắp mọi nơi.

FLP cũng thành lập nên nhà máy sản xuất sản phẩm từ ong, một trong những nhà máy rộng lớn trên thế giới ở sa mạc Arizona và nhà máy tạo ra các sản phẩm từ ong tinh khiết và chất lượng nhất. Những nỗ lực của đội ngũ nghiên cứu và phát triển của công ty cho phép công ty đạt được một số sáng chế , ví dụ hiện tại là công nghệ thu thập phấn hoa, sáp ong và sữa ong chúa, làm cho công việc kinh doanh sản phẩm từ ong phát triển thêm. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Tập đoàn Forever Living Products Việt Nam – Công ty TNHH Thương mại Lô Hội Công ty TNHH Thương mại Lô Hội là thành viên thứ 81 của tập đoàn FLP, ngày 15-06-2018, Công ty TNHH TM Lô Hội đã chính thức ra đời với vai trò là nhà nhập khẩu và phân phối độc quyền các dòng sản phẩm FLP tại Việt Nam.

Sau 6 năm có mặt tại thị trường Việt Nam, dòng sản phẩm Lô Hội đã dần trở nên quen thuộc đối với rất nhiều người tiêu dùng. Tính cho đến thời điểm hiện nay (6-2008), Công ty đã có hơn 210.000 nhà phân phối ở khắp 64 tỉnh thành trên cả nước, doanh thu năm 2023 đạt gần 250 tỉ đồng, tăng hơn 1.200% so với năm 2018.

Công ty đang kinh doanh 33 mặt hàng mỹ phẩm và 24 mặt hàng “thực phẩm bổ sung dinh dưỡng”. Nếu chỉ dựa trên khung giá sỉ và lẻ (chưa tính thuế VAT 10%) công bố trên đơn đặt hàng, cho thấy chênh nhau trung bình gần 43%, tỉ lệ đủ kích thích nhiều người tham gia làm nhà phân phối (phân phối viên) để hưởng giá sỉ.

Thực chất công ty định giá bán cao gấp 40-50 lần (4.000-5.000%) so với giá vốn (sau khi đã tính thuế nhập khẩu, phí vận chuyển, bốc xếp, lưu kho). Với 24 mặt hàng “thực phẩm” vốn chỉ từ 3.226 đồng/lọ, cao nhất 11.592 đ/lọ, nhưng bán sỉ từ 138.000 – 419.000đ/lọ. Giá bán mỹ phẩm lại càng “trên trời”. Xin nêu một vài mặt hàng để tham khảo:

Bảng 6: Bảng giá sỉ và giá lẻ một số sản phẩm của công ty Lô Hội

Với hình thức kinh doanh theo mạng, công ty đưa ra “Kế hoạch tiếp thị FLP” với cấu trúc tiền hoa hồng cá nhân từ 5%-8%-13%-18% cho các cấp tham gia mạng phân phối. Ngoài hoa hồng cá nhân còn có hoa hồng khối lượng từ 3%-13%-28%. Tập “Chính sách công ty” còn đưa ra hoa hồng lãnh đạo, “huy hiệu quản lý vàng”, “quản lý ngọc”, “quản lý ngọc bích”, “ngọc bích – kim cương”, rồi những tài sản được đứng tên mình như xe hơi, nhà, thuyền, máy bay… Với hoa hồng hấp dẫn, những ảo vọng “ngất trời” này, các phân phối viên lao vào cuộc tìm người để “bảo trợ” – cứ một người mua hai chỉ tiêu, thì phân phối viên có hoa hồng trên 400.000 đồng, ba người thì hoa hồng gần 2 triệu. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Như vậy, ngay khi để trở thành phân phối viên, phải có người bảo trợ, làm hồ sơ đăng ký và mua đủ 2 chỉ tiêu (khoảng 6,3 triệu đồng) thì chính các phân phối viên này đã bị thiệt do phải mua với giá rất cao so với giá trị thực của sản phẩm.

Ngoài ra, công ty Lô Hội còn bị phát hiện chỉ đăng ký bán “thực phẩm dinh dưỡng” nhưng lại quảng cáo thuốc. Với 24 mặt hàng thực phẩm bổ sung dinh dưỡng do văn phòng đại diện thường trú Forever Living Products Việt Nam công bố tiêu chuẩn chất lượng thực phẩm và được Cục Quản lý chất lượng – vệ sinh an toàn thực phẩm cấp phiếu tiếp nhận, Công ty Lô Hội tự biên soạn, in 2.039 cuốn cẩm nang sử dụng, dày 186 trang, giới thiệu 24 sản phẩm chữa 141 loại bệnh, với hướng dẫn sử dụng, chỉ định, liều dùng… Chữa từ nhiễm độc máu, gãy xương, bỏng, tắc mạch máu não, đột quị, thủy đậu, dịch tả, xơ gan, động kinh… cho đến ung thư.

Với nội dung vô cùng phản khoa học như vậy, không qua kiểm duyệt của cơ quan chức năng, không giấy phép xuất bản, công ty còn in dòng chữ: “Cuốn cẩm nang sử dụng do Công ty Lô Hội phát hành cho các phân phối viên với mục đích giới thiệu sản phẩm Forever Living Products đến với các khách hàng của mình. Công ty Lô Hội nghiêm cấm mọi hình thức sao chép (copy) hoặc trích lục.

Kết quả kiểm tra cho thấy có đến 21/24 mặt hàng kiểm tra là thuốc chứ không phải sản phẩm thực phẩm. Tại đây tổ kiểm tra còn phát hiện 32 đĩa VCD không dán tem kiểm soát của Bộ Văn hóa – thông tin, được nhân bản từ hai cuộn băng gốc để bán với giá 10.000 đồng/đĩa. Đó là những minh chứng cho những hành vi trái pháp luật, gian lận của công ty TNHH TM Lô Hội trong quá trình hoạt động của mình.

III: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG MARKETING ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Hoạt động kinh doanh đa cấp xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 2016, với nhiều diễn biến phức tạp đòi hỏi phải có cơ chế quản lý giám sát chặt chẽ. Luật Cạnh tranh có hiệu lực từ 01/07/2021 đã luật hoá khái niệm kinh doanh đa cấp, ngăn cấm các hành vi kinh doanh đa cấp bất chính. Tiếp theo, Chính phủ đã ban hành Nghị định 110/2021/NĐ-CP ngày 24/08/2021 quy định các nội dung quản lý hoạt động Kinh doanh đa cấp. Bộ Công Thương cũng đã có Thông tư 19/2021/TT-BMT ngày 08/01/2021 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định 110, chủ yếu liên quan đến thủ tục đăng ký tổ chức kinh doanh đa cấp tại các Sở Thương mại, Sở Thương mại – Du lịch.

Các Sở Thương mại, Sở Thương mại – Du lịch giúp uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp Giấy đăng ký tổ chức kinh doanh đa cấp; thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh đa cấp trên địa bàn và báo cáo đình kỳ trước 15 tháng 01 hàng năm với Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Thương mại về việc kiểm tra, giám sát đó.

Theo báo cáo của các Sở Thương mại, Sở Thương mại – Du lịch, tính đến hết ngày 31/01/2023 trên toàn quốc có 25 doanh nghiệp đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp; trong đó Hà Nội có 11 doanh nghiệp đăng ký, TP Hồ Chí Minh có 12 doanh nghiệp đăng ký, 01 doanh nghiệp đăng ký tại Đồng Nai và 01 doanh nghiệp đăng ký tại Bình Dương. Trong số này, 01 doanh nghiệp đã bị thu hồi Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp do vi phạm pháp luật nghiêm trọng (Công ty TNHH Sinh Lợi) theo Quyết định số 263/QĐ- TM-TTr ngày 26/06/2022 của Sở Thương mại TP HCM, 02 công ty xin rút giấy Giấy đăng ký tổ chức BHĐC (Công ty TNHH Ích Lợi – TP HCM và Công ty TNHH Quy Xuyên Việt Nam – Hà Nội), một công ty xin tạm ngừng hoạt động (Công ty TNHH Dược phẩm Điền Thảo Đường – Hà Nội). Các doanh nghiệp Marketing đa cấp chủ yếu kinh doanh các mặt hàng thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, đồ gia dụng.

1. Kết quả đạt được Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Sau khi Nghị định 110 và Thông tư 19 được ban hành cuối năm 2021, Cục Quản lý cạnh tranh đã tích cực triển khai thực thi các quy định về quản lý hoạt động Kinh doanh đa cấp. Nhận thức được tính chất phức tạp của hoạt động BHĐC, Cục đã tăng cường phối hợp với các Sở Thương mại, Thương mại du lịch tại các địa phương thông qua nhiều hình thức như văn bản, điện thoại, email,… để theo dõi cập nhật diễn biến thực tế, hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật về Marketing thống nhất trên toàn quốc, phố biến kinh nghiệm quản lý của một số địa phương trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.

Trong năm 2022, Cục Quản lý cạnh tranh đã thực hiện được nhiều hoạt động để giám sát hoạt động marketing đa cấp.

  • Phối hợp với Cục An toàn vệ sinh thực phẩm và Vụ Pháp chế – Bộ Y tế về việc hướng dẫn cấp Giấy chứng nhận kinh doanh cho các doanh nghiệp BHĐC kinh doanh thực phẩm chức năng theo yêu cầu của Sở Thương mại TP. HCM:
  • Phối hợp với Cục Quản lý thị trường xây dựng nội dung quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Kinh doanh đa cấp trong khuôn khổ Nghị định sửa đổi Nghị định 175/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/10/2020 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại;
  • Phối hợp với Sở Thương mại TP. HCM trong việc xử lý vi phạm pháp luật của Công ty Cổ phần Sinh Lợi;
  • Tổ chức các khoá tập huấn nghiệp vụ về quản lý hoạt động Kinh doanh đa cấp cho các Sở thương mại – Du lịch Nghệ An, Hải Dương,. Vĩnh Phúc, Thừa Thiên – Huế.

Ngày 08/06/2023, Cục Quản lý cạnh tranh phối hợp với Sở Thương mại và Du lịch Hậu Giang tổ chức khoá Tập huấn nâng cao nghiệp vụ quản lý bán hàng đa cấp cho cán bộ thương mại và quản lý thị trường các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tại Thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Tham gia buổi tập huấn có đông đảo đại diện lãnh đạo và cán bộ chuyên viên Sở Thương mại, Sở Thương mại Du lịch các tỉnh Hậu Giang, An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Đồng Tháp, Kiên Giang, Sóc Trăng và Vĩnh Long; đại diện lãnh đạo Chi cục Quản lý thị trường và đội trưởng, đội phó các đội Quản lý thị trường địa phương. Về phía Cục Quản lý cạnh tranh, Phó Cục trưởng Trần Anh Sơn và các chuyên viên trong Ban Điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh đã thực hiện các bài giảng. Tới dự và đưa tin về chương trình còn có nhiều đại diện các cơ quan báo đài địa phương.

Theo Nghị định 110/2021/NĐ-CP ngày 24/08/2021 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, công tác quản lý được phân cấp cho các Sở Thương mại, Sở Thương mại – Du lịch địa phương. Đây là lĩnh vực mới và diễn biến phức tạp, đòi hỏi có sự quan tâm theo dõi, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ quản lý. Tại khoá đào tạo, đại diện Cục Quản lý cạnh tranh đã trình bày các nội dung về những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh doanh đa cấp, các quy định pháp luật của Việt nam về Bán hàng đa cấp, và Quản lý nhà nước về kinh doanh đa cấp. Bên cạnh các bài trình bày là phần hỏi đáp, trao đổi kinh nghiệm giữa Cục Quản lý cạnh tranh và các Sở về các vấn đề thực tiễn trong công tác quản lý, đáp ứng được nhu cầu thiết thực của địa phương….

Xuất bản một số tài liệu, ấn phẩm phục vụ công tác tuyên truyền pháp luật liên quan đến quản lý Marketing đa cấp.

Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về quản lý hoạt động marketing đa cấp, các Sở Thương mại, Sở Thương mại du lịch đã thực hiện kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động Marketing đa cấp trong năm 2022.

Bên cạnh việc thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở các doanh nghiệp thực hiện Marketing đa cấp tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật có liên quan, trong thời gian vừa qua, các cơ quan hữu quan còn kịp thời phát hiện và xử lý một số vi phạm trong hoạt động marketing đa cấp, được các dư luận ủng hộ rộng rãi, như việc xử lý vụ việc của công ty Sinh Lợi,…

2. Hạn chế và tồn tại

2.1. Chủng loại sản phẩm Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Không phải mặt hàng nào cũng có thể kinh doanh theo mô hình marketing đa cấp. Hầu như phải là những mặt hàng thực sự có chất lượng và độc đáo, độc quyền, chỉ doanh nghiệp đó kinh doanh mới có thể áp dụng mô hình này. Vì vậy lượng sản phẩm được đưa vào kinh doanh theo mô hình này còn giới hạn ở một số mặt hàng như: mỹ phẩm, thực phẩm dinh dưỡng, sản phẩm bảo vệ sức khỏe,… mà chưa thể mở rộng ra kinh doanh một số mặt hàng khác.

2.2. Giá cả sản phẩm

Về cơ bản, giá sản phẩm trong marketing đa cấp phải thấp hơn giá bán tại các cửa hàng, siêu thị,… trên thị trường vì MLM tiết kiệm được chi phí trung gian cho các đại lý, chi phí cho việc quảng cáo, mở rộng thương hiệu. Tuy nhiên trên thực tế giá sản phẩm trong MLM phụ thuộc rất lớn vào chế độ trả thưởng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có mạng lưới sâu, rộng với một chính sách trả thưởng hậu hĩnh thì giá sản phẩm sẽ cao hơn bình thường do phải chi trả hoa hồng của các phân phối viên. Mặt khác, do sản phẩm được doanh nghiệp marketing đa cấp là sản phẩm độc đáo, độc quyền nên khách hàng không có nhiều thông tin để so sánh giá cả sản phẩm. Vì vậy, dư luận về giá sản phẩm cao hơn rất nhiều so với thị trường diễn ra từ khi marketing đa cấp bắt đầu xâm nhập vào thị trường Việt Nam.

2.3. Chính sách của công ty

Hầu hết các công ty marketing đa cấp hiện nay đều theo đuổi những mục tiêu kinh doanh riêng trong khi hành lang pháp lý về hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam chưa hoàn chỉnh. Vì vậy mà một số công ty có thể có những chính sách lách luật nhằm đạt được mục đích của mình. Đã kinh doanh là phải có lợi nhuận, đa số các doanh nghiệp marketing đa cấp tại Việt Nam hiện đang theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các ông chủ doanh nghiệp ra sức đưa ra những chính sách trả thưởng và lợi ích đi kèm cho các phân phối viên thật hậu hĩnh nhằm thu hút, lôi kéo họ tham gia nhưng khi có chuyện gì xảy ra việc các phân phối viên phải chịu thiệt là điều hoàn toàn dễ hiểu. Chưa có một chuẩn mực nào cho các doanh nghiệp marketing đa cấp xây dựng các chính sách như chính sách trả thưởng, chính sách lợi ích đi kèm như du lịch, nhà cửa…đối với các phân phối viên, chính sách đào tạo phân phối viên các kỹ năng cần thiết… Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

3. Nguyên nhân của những hạn chế

3.1. Từ góc độ quản lý Nhà nước

Kinh doanh đa cấp đã xuất hiện ở Việt Nam hơn 8 năm qua nhưng cách đây 3 năm vẫn chưa có khung pháp lý cho hình thức kinh doanh này.

Nhiều công ty đã lợi dụng kẽ hở này để sử dụng marketing đa cấp vào những hình thức bất chính, gây thiệt hại cho người tham gia, người tiêu dùng cũng như cho cả xã hội.

Mặt khác, việc tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh đa cấp chưa chặt chẽ, thiếu sự phối hợp kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng, chưa phát hiện và xử lý kịp thời các doanh nghiệp có hành vi marketing đa cấp không trung thực. Do đó, các hành vi vi phạm như quảng cáo gian dối, đẩy giá sản phẩm lên cao, trốn thuế nhập khẩu, thuế thu nhập…ở một số doanh nghiệp kinh doanh đa cấp đã trở nên phổ biến gây dư luận không tốt, ảnh hưởng đến người tham gia, người tiêu dùng và cả những doanh nghiệp đang làm ăn chân chính.

3.2. Từ góc độ doanh nghiệp

Marketing đa cấp có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay một số doanh nghiệp lợi dụng nó để thu lợi bất chính, lợi dụng sự hạn chế về nhận thức để lừa đảo người tham gia, người tiêu dùng, tác động xấu đến xã hội và cả các doanh nghiệp marketing đa cấp khác. Trong thời gian qua, bản thân doanh nghiệp không có ý thức tự giác thực hiện những chính sách nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng cho người tham gia và người tiêu dùng, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước…. Ngoài ra, hoạt động marketing đa cấp đang diễn ra ở thị trường Việt Nam một cách ồ ạt, các doanh nghiệp chưa có biện pháp hiệu quả để quản lý hệ thống phân phối viên đã dẫn đến hiện tượng có quá nhiều người tham gia vào mạng lưới, có sự chồng chéo gây hỗn loạn, khó kiểm soát. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

Mặt khác, trình độ phân phối viên trong mạng lưới của doanh nghiệp kinh doanh đa cấp còn nhiều hạn chế do các doanh nghiệp chỉ quy định trình độ tuổi được phép tham gia kinh doanh là 18 tuổi trở lên chứ không có quy định rõ ràng về trình độ của người muốn tham gia. Phân phối viên có trình độ thấp sẽ hạn chế khả năng nhận thức về mô hình kinh doanh, về sản phẩm dẫn đến việc tuyên truyền sai sự thật gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng, gây tâm lý e ngại của mọi người trong xã hội đối với maketing đa cấp. Hơn nữa, phần lớn người tham gia maketing đa cấp ở Việt Nam coi đây chỉ là việc làm thêm, không có tính chất ổn định nên nhiều khi chỉ hoạt động như một người bán lẻ thông thường mà không tâm huyết với công việc đó. Do vậy, ngành marketing đa cấp ở Việt Nam chưa được phát triển đúng hướng, chưa phát huy được tác dụng tích cực của nó với xã hội.

3.3. Từ góc độ người tiêu dùng

Đối với thị trường Việt Nam, phương thức marketing đa cấp còn quá mới mẻ. Khái niệm marketing đa cấp còn chưa được hiểu rõ ràng ở rất nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội. Chính sự hạn chế về nhận thức đó đã tạo điều kiện cho một số công ty kinh doanh đa cấp lợi dụng phương thức kinh doanh này để trục lợi, gây tổn hại cho xã hội, bị dư luận lên án làm mất lòng tin của xã hội vào marketing đa cấp. Một số doanh nghiệp muốn hoạt động marketing đa cấp một cách chân chính nhưng do phải áp dụng dập khuôn mô hình của nước ngoài mà không căn cứ vào điều kiện cụ thể về tâm lý, mức sống của người Việt Nam dẫn đến hoạt động kinh doanh của công ty đó chứa nhiều rủi ro cho người tham gia và kết quả là cũng bị báo chí lên án.

Tuy những phản ánh trên các phương tiên thông tin đại chúng có nhiều phản ánh xác thực nhưng cũng có không ít phản ánh thiếu tính khách quan nên đã gây thiệt hại cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động marketing đa cấp chân chính. Ngoài ra, ngay cả những tổ chức, các nhân có ảnh hưởng lớn đối với xã hội như các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà kinh tế, chính trị, … thậm chí cả những người tham gia cũng chưa hiẻu đúng về hoạt động marketing đa cấp, về sự khác nhau giữa marketing đa cấp chân chính và bất chính. Vậy mà, họ đã đưa ra nhiều bình luận, thông tin sai lệch về phương thức kinh doanh này khiến phần lớn công chúng không hiểu hoặc hiểu sai về Maketing đa cấp, gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ cho người tham gia đồng thời hạn chế sự tồn tại của phương thức maketing này.

Vậy là ở chương này chúng ta đã có cái nhìn tổng quan nhất về thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam, xác định những thành quả đã đạt được và một số hạn chế cần khắc phục. Vậy xu hướng phát triển của loại hình này ở Việt Nam ra sao và giải pháp đưa ra nhằm cải thiện những hạn chế đã nêu ra như thế nào, chúng ta sẽ được biết ở chương tiếp theo của khóa luận này. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải pháp hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993