Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam về quản tài viên: 

2.1.1. Điều kiện trở thành Quản tài viên:

Luật phá sản năm 2014 được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 theo đó Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản là quy định mới lần đầu tiên được đưa vào Luật phá sản ở Việt Nam.

Quản tài viên là một chức danh mới lần đầu tiên xuất hiện trong Luật phá sản 2014, theo đó Quản tài viên là một trong hai chủ thể được hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phá sản bên cạnh Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Có ý kiến cho rằng nên thay đổi tên gọi “Quản tài viên” bằng tên gọi “Quản lý tài sản” vì cho rằng thuật ngữ “Quản tài viên” là thuật ngữ tiếng Hán không phải từ thuần Việt, và cần thay bằng cụm từ “Người quản lý tài sản”. Tuy nhiên, Luật phá sản 2014 vẫn quy định giữ nguyên tên gọi “Quản tài viên”.

Luật phá sản năm 2014 quy định “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản” (khoản 7 điều 4 Luật phá sản năm 2014).

Theo đó thì Quản tài viên là người có thể hành nghề theo tư cách cá nhân , hoặc hành nghề theo doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thông qua việc thành lập doanh nghiệp hoặc hợp đồng làm việc.

Điều 12 Luật phá sản năm 2014 quy định về điều kiện hành nghề Quản tài viên: Quản tài viên hành nghề như một ngành nghề kinh doanh có điều kiện và phải có chứng chỉ hành nghề. Điều kiện để cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên là:

Thứ nhất: Phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Thứ hai: Có phẩm chất đạo đức và ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực và khách quan;

Thứ ba: Có chứng chỉ hành nghề Quản tài viên. Cá nhân phải thuộc những trường hợp được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên. Theo quy định điều 12 Luật phá sản năm 2014 thì chỉ những người sau đây mới được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên:

  • Luật sư
  • Kiểm toán viên
  • Người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng có kinh nghiệm 5 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo.

Ngoài những trường hợp nêu trên thì Nghị định 22/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản còn quy định trường hợp được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên còn có luật sư nước ngoài đã được cấp giấy phép hành nghề theo quy định của pháp luật về luật sư, kiểm toán viên theo quy định của pháp luật về kiểm toán được phép nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng chỉ hành nghề Quản tài viên.

Thứ tư:  Thuộc trường hợp không được hành nghề Quản tài viên theo quy định pháp luật tại điều 14 Luật phá sản năm 2014. Theo đó, những đối tượng không được hành nghề Quản tài viên bao gồm:

  • cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong cơ quan thuộc Công an nhân dân;
  • người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích;
  • người đang bị áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
  • người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế hành vi năng lực dân sự.
  • bị thu hồi chứng chỉ nghề luật sư, kiểm toán viên;
  • Đã bị thay đổi trong hai vụ việc phá sản trở lên trong vụ việc phá sản do vi phạm nghĩa vụ của Quản tài viên, hoặc có chứng cứ cho rằng Quản tài viên không khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ.

Thứ năm: Quản tài viên muốn tham gia vào quá trình quản lý, thanh lý tài sản một vụ việc phá sản phải có đề xuất chỉ định của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đồng thời phải là người không liên quan đến vụ việc phá sản. Quản tài viên không phải là người thân thích của người tham gia thủ tục phá sản.

Như vậy, qua những quy định trên, có thể thấy, điều kiện hành nghề Quản tài viên ở Việt Nam khá chặt chẽ. Không phải ai cũng có thể trở thành.

Quản tài viên mà chỉ những người đáp ứng đủ yêu cầu mà pháp luật đã quy định mới có thể được Tòa án chỉ định và tiến hành những công việc của Quản tài viên. Quản tài viên có thể hoạt động với tư cách cá nhân hay hành nghề trong doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.2. Nguyên tắc hành nghề quản tài viên: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Mỗi ngành nghề đều có những nguyên tắc riêng để tuân theo trong quá trình hoạt động. Riêng với Quản tài viên là người quản lý, thanh lý tài sản, nguyên tắc nghề nghiệp lập ra cần phải tuân thủ tuyệt đối, để hoạt động một cách hiệu quả nhất, mang lại lợi ích cho các bên trong quá trình giải quyết phá sản một cách công bằng. Nguyên tắc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản như sau:

  • Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
  • Tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Quản tài viên;
  • Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch, khách quan;
  • Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề

Nghị định cũng quy định những hành vi bị nghiêm cấm đối với Quản tài viên. Cụ thể:

  • Cho thuê, cho mượn hoặc cho cá nhân, tổ chức khác sử dụng chứng chỉ hành nghề Quản tài viên của mình để hành nghề Quản lý, thanh lý tài sản;
  • Gợi ý hoặc nhận bất kỳ một hoặc tiền hoặc lợi ích vật chất từ người tham gia thủ tục phá sản hoặc lợi dụng danh nghĩa Quản tài viên để thu lợi từ cá nhân, tổ chức ngoài chi phí Quản tài viên được nhận theo quy định của pháp luật;
  • Lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn để thông đồng với cá nhân, tổ chức nhằm mục địch vụ lợi;
  • Tiết lộ thông tin về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán mà Quản tài viên biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được doanh nghiệp, hợp tác xã đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.

Quản tài viên hành nghề với hai hình thức là hành nghề với tư cách cá nhân và hành nghề trong doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bằng việc thành lập hoặc tham gia thành lập hoặc làm việc theo hợp đồng cho doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 8 Luật phá sản 2014). Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Trường hợp hành nghề với tư cách là cá nhân thì luật sư, kiểm toán viên, người có trình độ cử nhân luật kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo thì được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên. Tuy nhiên, muốn được hành nghề thì cá nhân nêu trên ngoài việc được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên thì phải đáp ứng được yêu cầu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực và khách quan.

2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quản tài viên trong quản lý, thanh lý tài sản phá sản:

Như chúng ta đã biết, Quản tài viên là một chức danh rất mới và là một trong những chế định trung tâm của Luật phá sản năm 2014. Quản tài viên theo luật phá sản hiện hành đóng vai trò vô cùng quan trọng , được thể hiện cụ thể qua những nhiệm vụ của chủ thể này.

Theo điều 16 Luật phá sản năm 2014, Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất: Quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Để thực hiện nhiệm vụ này, Quản tài viên sẽ thực hiện những  công việc sau:

Xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.

Theo đó, Quản tài viên phải thực hiện hoạt động xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, tài sản nợ và giao dịch trước đây của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, đặc biệt là những giao dịch diễn ra trong giai đoạn 18 tháng trước khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản, bởi đây chính là giai đoạn mà pháp luật quy định giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là vô hiệu. Quản tài viên còn phải thu thập tài liệu, thông tin xem xét bất kì bên thứ ba nào đã giao dịch với con nợ, đặc biệt để phát hiện giao dịch thuộc trường hợ vô hiệu để đề nghị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Trường hợp những tài liệu, thông tin, chứng cứ mà Quản tài viên không thể tự mình thu thập thì có thể đề nghị Thẩm phán tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ.

Lập bảng kê khai tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ:          

Quản tài viên lập bảng kê khai danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ theo quy định của pháp luật (điều 65, 67, 68 của Luật phá sản 2014). Đây là hoạt động xây dựng, cập nhập thông tin, đính chính thông tin, kiểm tra độ chính xác của thông tin về tài sản, về chủ nợ, người mắc nợ… Quản tài viên thanh lý tài sản thông báo cho Hội nghị chủ nợ tình hình kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã; kết quả kiểm kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ và các nội dung khác tại Hội nghị chủ nợ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Bảo quản tài sản ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của thẩm phán; ngăn chặn việc tẩu tán tài sản; tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản.

Quản tài viên thực hiện tất cả hoạt động cần thiết để bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán, ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được sự cho phép của Thẩm phán. Trường hợp phát hiện việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán, thì Quản tài viên đề nghị Thẩm phán tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp.

Giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của pháp luật.

Để thực hiện đúng chức năng quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, Điều 49 Luật phá sản 2014 quy định: Quản tài viên được quyền giám sát hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo đó, sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo với quản tài viên trước khi thực hiện việc vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán tài sản; bán, chuyển đổi cổ phần; chuyển quyền sở hữu tài sản; chấm dứt thực hiện hợp đồng có hiệu lực; thanh toán khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản; trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.

Thứ hai: Đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định pháp luật:

Trường hợp này Quản tài viên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản, Quản tài viên được hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật. Để thực hiện được quy định này thì cần có quy định về bảo hiểm có trách nhiệm chi trả cho tổn hại gây ra bởi sự cẩu thả của Quản tài viên khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình và chủ nợ được phép khởi kiện Quản tài viên đối với bất kì tổn hại nào gây ra bởi sự cẩu thả của họ khi thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao.

Thứ ba: Báo cáo về tình trạng tài sản, nợ công, và hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã, tham gia kế hoạch xây dựng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.

Thứ tư: Đề nghị thẩm phán thực hiện các công việc như thu thập tài liệu, chứng cứ; tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, áp dụng biện pháp xử phạt hành chính…

Như vậy, ta có thể thấy, Luật phá sản 2014 đã có những quy định cụ thể và tương đối đầy đủ, toàn diện về một chủ thể mới thực hiện chức năng quản lý và thanh lý tài sản ở Việt Nam, đó là thiết chế Quản tài viên.  Với quy định này, có thể thấy, Luật phá sản 2014 đã tạo ra một nghề nghiệp mới mang chức danh “Quản tài viên” với hoạt động quản lý, thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam.

2.1.4. Thù lao của Quản tài viên: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Trong quá trình hoạt động, Quản tài viên được hưởng chi phí thù lao theo quy định điều 21 Luật phá sản:

Chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản bao gồm thù lao quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản và chi phí khác.

Thù lao được tính dựa trên các căn cứ: thời gian Quản tài viên sử dụng để thực hiện nhiệm vụ; công sức của Quản tài viên trong việc thực hiện nhiệm vụ; kết quả thực hiện nhiệm vụ của Quản tài viên.

Thù lao được tính dựa trên một hoặc các phương thức: giờ làm việc; mức thù lao trọn gói; mức thù lao tính theo tỉ lệ phần trăm tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã thu được sau khi thanh lý.

Mức thù lao được xác định cụ thể tại khoản 4 điều 21 Nghị định 22/2015/NĐ-CP

Đối với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy định tại điểm b hoặc c khoản 1 điều 95 của Luật phá sản thì thù lao bao gồm mức thù lao được xác định theo từng trường hợp được quy định tại điểm b khoản 4 điều 21 NĐ 22/2015/NĐ-CP cộng với thù lao giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thực hiện phương án phục hồi kinh doanh. Thù lao giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do thẩm phán và quản tài viên thỏa thuận trên cơ sở căn cứ quy định tại khoản 2 và phương thức quy định tại khoản 3 điều này.

Đối với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện xong phương án phục hồi kinh doanh quy định tại điểm a khoản 1 điều 95 Luật phá sản thì mức thù lao do Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản và quản tài viên thỏa thuận trên cơ sở căn cứ quy định tại khoản 2 và phương thức quy định tại khoản 3 điều 21 nghị định 22/2015/NĐ-CP.

Trong trường hợp Hội nghị chủ nợ và quản tài viên có thỏa thuận khác về mức thù lao quy định tại khoản 4 điều này thì mức thù lao được áp dụng theo thỏa thuận đó. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Trong trường hợp phá sản tổ chức tín dụng theo quy định tại chương VIII của Luật phá sản thì thù lao quản tài viên được xác định theo quy định tại điểm a,b khoản 4 điều này.

Chi phí khác của Quản tài viên bao gồm tiền tàu xe, lưu trú, và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện hoạt động quản lý thanh lý tài sản. Việc thanh, quyết toán chi phí khác của quản tài viên được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.

Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản căn cứ vào từng vụ việc cụ thể quyết định mức tạm ứng chi phí quản tài viên. Quản tài viên nhận chi phí tạm ứng, thực hiện việc thanh, quyết toán theo quy định của pháp luật về tài chính, kế toán.

Như vậy, thiết chế quản lý thanh lý tài sản được pháp luật quy định về mức thù lao theo quy định hoặc theo thỏa thuận, người quản lý tài sản có vai trò xuyên suốt toàn bộ quá trình tiến hành tố tụng phá sản, từ khi Tòa án mở thủ tục giải quyết việc phá sản đến quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh và cuối cùng là giai đoạn thanh toán và chấm dứt vụ việc phá sản. Có thể nói, Quản tài viên hoạt động  như một dịch vụ và làm việc vì lợi ích kinh tế nhưng cũng là một chủ thể hoạt động tư pháp tuân theo quy định pháp luật.

2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam hiện nay: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) năm 2014 của Ngân hàng Thế giới (WB), thì việc giải quyết các trường hợp phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam được đánh giá là kém hiệu quả, xếp hạng thứ 149 trên tổng số 189 các nền kinh tế được  xếp hạng. Nếu áp dụng quy trình chính thức, thủ tục phá sản phải mất ít nhất 5 năm, tốn kém đến 15% giá trị tài sản của doanh nghiệp. Hơn nữa, khi kết thúc việc phá sản, thì các bên liên quan chỉ thu hồi được 18% giá trị tài sản của doanh nghiệp vỡ nợ. Vì thế, rất ít doanh nghiệp tuân theo các quy định và thủ tục phá sản chính thức khi lâm vào tình trạng khó khăn, mất khả năng thanh toán.

So với đạo luật về phá sản đầu tiên của Việt Nam – Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2014 đã đánh dấu được một bước phát triển mới của pháp luật phá sản Việt Nam. Luật Phá sản năm 2014 đã quy định phù hợp hơn về tình trạng phá sản nhằm mở thủ tục phá sản kịp thời đối với các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ khi chủ nợ có yêu cầu, quy định đầy đủ và hợp lý hơn về các đối tượng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn cũng như thủ tục, trình tự và hồ sơ yêu cầu mở thủ tục phá sản, đa dạng hóa các loại thủ tục áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm 2014 cũng tăng cường các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nhằm tạo khả năng phục hồi cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, xử lý rõ quan hệ giữa thủ tục phá sản và các thủ tục khác có liên quan, thứ tự phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản… Tuy nhiên, tính đến tháng 12 năm 2012, trong số 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì chỉ có 49 Tòa án nhận được 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản; trong tổng số 336 đơn yêu cầu, Tòa án đã ra 236 quyết định mở thủ tục phá sản và ra 83 quyết định tuyên bố phá sản. Số liệu khiêm tốn nói trên phản ánh không trung thực kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian qua, đặc biệt trong một thời gian dài chúng ta chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu.

Nhận thấy được sự bất cập đó, Luật phá sản năm 2014 quy định về Quản tài viên là chủ thể được Tòa án chỉ định nhằm giải quyết thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Thiết chế về quản tài viên đã có từ lâu đời ở các nước có nền lập pháp phát triển. Ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy vào điều kiện kinh tế- xã hội mà có những quy định về điều kiện hành nghề Quản tài viên. Tuy nhiên, nhìn chung thì để trở thành một Quản tài viên yêu cầu cần có chuyên môn về lĩnh vực luật, tài chính… Pháp luật của hầu hết các quốc gia đều quy định Quản tài viên là những luật sư, kiểm toán viên, chuyên gia kinh tế… Và Quản tài viên đều do Tòa án chỉ định dựa trên cơ sở tham khảo ý kiến của chủ nợ, con nợ và các chủ thể khác.

Quy định về điều kiện hành nghề của Quản tài viên theo pháp luật phá sản Việt Nam năm 2004 đã dựa trên các tiêu chí và khuyến nghị của UNCITRAL từ việc tham khảo mô hình quản tài viên ở một số quốc gia có luật phá sản hiện đại và phát triển. Tuy nhiên, việc quy định chế định Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản năm 2014 đã khắc phục được những hạn chế của Luật phá sản năm 2004. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Thứ nhất:về quy định mô hình quản tài viên và điều kiện hành nghề

Luật phá sản 2014 đã khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế phối hợp, tính chất kiêm nhiệm của các thành viên trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản, đáp ứng yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả và chuyên nghiệp trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý tài sản doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.

Những quy định đưa ra phù hợp với thông lệ quốc tế vì hiện nay nhiều nước quy định về chế định Quản tài viên, ví dụ: Nhật Bản, Đức, Nga, Pháp, Mỹ, Latvia và theo khuyến nghị số 45 của Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc (UNCITRAL)có khuyến nghị về chế định Quản tài viên.

Thứ hai:Về nhiệm vụ quyền hạn của quản tài viên trong quản lý và thanh lý tài sản phá sản

Với quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của quản tài viên đã nêu ở trên và việc để áp dụng luật định vào thực tế một cách khách quan nhất, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, cũng như có những giải pháp quản lý, điều hành hiệu quả, tạo điều kiện để quản tài viên thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần phát huy hiệu lực, hiệu quả của Luật phá sản trong thực tiễn.

Trong quá trình hành nghề, Quản tài viên đều có quyền khiếu nại đối với quyết định hoặc hành vi hành chính của cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ chức khác nếu có căn cứ cho rằng quyết định hay hành vi đó xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Quản tài viên. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

Thực tế, Quản tài viên là chủ thể trung gian điều hòa lợi ích của các đối tượng có liên quan đến doanh nghiệp phá sản.Vai trò trung gian được thể hiện ở chỗ, Quản tài viên là chủ thể độc lập với chủ nợ và con nợ.

Theo quy định tại điều 45 Luật phá sản 2014, thì “trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản , Thẩm phán có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc Doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản”. Như vậy, ngay sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, Quản tài viên hoặc Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ được thẩm phán phụ trách xử lý việc phá sản theo chỉ định để quản lý, thanh lý và giám sát các tài sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán. Đối với các vụ việc đơn giản, tài sản của Doanh nghiệp, hợp tác xã không nhiều, các giấy tờ, hồ sơ tài chính liên quan đến tài sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã không quá phức tạp thì việc chỉ định Quản tài viên là hợp lý. Tuy nhiên, đối với những vụ việc phá sản phức tạp, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã có giá trị lớn, hồ sơ, sổ sách tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã có nhiều vấn đề thì việc chỉ định Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là cần thiết.

Thứ ba: về chế độ thù lao của Quản tài viên.

Tuy vấn đề này đang gây ra nhiều tranh cãi nhưng nhìn chung pháp luật đã có những quy định đảm bảo công bằng cho cả quản tài viên và cả các chủ nợ. Có một điều rõ ràng là nếu mức phí quá thấp thì ngành nghề mới là quản tài viên sẽ không thu hút được lượng lao động chất lượng cao, đồng thời luật phá sản mới sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Nếu quy định mức phí quá cao hay căn cứ vào những yếu tố có lợi cho những đối tượng thiếu tính chuyên nghiệp thì sẽ không đảm bảo tối đa hóa lợi ích đồng vốn cho các chủ nợ, không đảm bảo được lợi ích của chủ nợ.

Mặc dù nghị định 22/2015/NĐ-CP quy định mức thù lao của Quản tài viên được tính dựa trên một trong ba phương thức là giờ làm việc của các quản tài viên, mức thù lao trọn gói và mức thù lao tính theo tỉ lệ phần trăm sau khi bị thanh lý. Điều này cho thấy sự linh hoạt trong việc tính phí thù lao cho quản tài viên. Tuy nhiên, điều quan trọng là thứ tự ưu tiên thanh toán chi phí thù lao này lại chưa được quy định trong luật và nghị định cụ thể bởi đa số các trường hợp phá sản trên thực tế, nếu đã trừ đi phần tài sản sử dụng để đảm bảo cho các nghĩa vụ tại ngân hàng và các chủ nợ khác thì tài sản còn lại của doanh nghiệp thưởng rất ít. Theo điều 21 về “chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản” , nếu “tổng giá trị tài sản thu được sau khi thanh lý” chỉ còn một vài trăm triệu đồng, thì quản tài viên chỉ được hưởng thù lao một vài triệu cho vài ba chục triệu đồng trong cả thời gian hàng năm theo đuổi vụ việc phá sản. Hoặc cũng có thể giá trị tài sản thu được sau khi thanh lý không còn đủ để thanh toán các khoản chi phí thì khi đó, không có gì bảo đảm quản tài viên có thể nhận được thù lao của mình. Như vậy, với rất nhiều quy định về trách nhiệm, điều kiện phức tạp để có thể hành nghề quản tài viên nhưng cơ chế đảm bảo về mức thù lao lại chưa thực sự cụ thể thì sẽ khó khuyến khích được sự tham gia của cá nhân giỏi và có trách nhiệm với nghề.

Kết luận chương 2:

So với Luật phá sản năm 2004, ta có thể thấy quyền của chủ thể quản lý, thanh lý tài sản đã rộng hơn rất nhiều. Với những quy định về điều kiện, quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý tài sản thì Luật phá sản năm 2014 đã hình thành một nghề mới đó là nghề quản lý, thanh lý tài sản phá sản. Tuy quy định của pháp luật đã tương đối chi tiết và đầy đủ, nhưng chúng ta cần hoàn thiện hơn nữa các quy định trên để đồng bộ hành lang pháp lý, tạo điều kiện để Quản tài viên thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình ở trên thực tế. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993