Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit

Rate this post

Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tài nguyên khoáng sản là nguồn lực quan trọng trong việc phát huy nội lực và điều đó được tác giả khắc họa rõ nét trong bài Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội và cung cấp nguồn nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp khác phát triển. Hiện tại nhu cầu nguyên liệu khoáng trên thị trường thế giới có xu thế tăng trưởng nhanh và giá cả tăng cao đã tác động mạnh tới hoạt động khai thác, sản xuất, xuất khẩu khoáng sản của cả nước cũng như của tỉnh theo cả hướng tích cực và tiêu cực. Dưới đây là Đề tài: Đánh giá hiện trạng môi trường trong quá trình tuyển tinh quặng apatit của nhà máy tuyển Tằng Lỏong, gửi đến các bạn đọc giả tham khảo!

MỞ ĐẦU

Tỉnh Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc của Việt Nam, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), là một trong những vị trí thuận lợi để phát triển kinh tế cửa khẩu, giao lưu trao đổi với bên ngoài, tạo ra nhiều cơ hội cho việc phát triển kinh tế – xã hội, khai thác các nguồn lực tự nhiên, tài nguyên của tỉnh. Lào Cai có diện tích tự nhiên rộng 805.708,5 ha, độ phì nhiêu cao, rất màu mỡ, đa dạng và là một trong những tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản nhất Việt Nam với 35 loại khoáng sản khác nhau và trên 150 điểm mỏ. Trong đó có nhiều loại khoáng sản như apatít, đồng, sắt, graphít, nguyên liệu cho gốm, sứ, thuỷ tinh… với trữ lượng lớn nhất cả nước. Apatit là loại khoáng sản duy nhất chỉ có ở Lào Cai với trữ lượng 2,5 tỷ tấn.

Mặt tích cực đó là hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản trên địa bàn đã có những đóng góp không nhỏ vào GDP của tỉnh, giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Mặt tiêu cực là tình trạng khai thác cũng như hoạt động sản xuất diễn biến phức tạp, gây mất trật tự – an toàn xã hội và gây ra những tác hại đến môi trường làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới đời sông xã hội của người dân quanh vùng. Nếu không có ý thức bảo vệ môi trường, cân bằng môi trường, cùng với các biện pháp quản lý chặt chẽ trong quá trình khai thác và chế biến khoáng sản của các doanh nghiệp thì chúng ta sẽ phải gánh chịu những thảm họa lâu dài, nghiêm trọng hơn và cùng những tác động nguy hiểm của biến đổi khí hậu đang rất gần.

Chính vì vậy em chọn đề tài: “Đánh giá hiện trạng môi trường trong quá trình tuyển tinh quặng apatit của nhà máy tuyển Tằng Lỏong” (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ QUẶNG APATIT

1.1. Khái quát về quặng apatit

1.1.1. Đặc điểm quặng 

Đá phôtphat thường chứa các khoáng vật apatit với hàm lượng rất khác nhau.Thông thường các quặng phôtphat nguồn gốc macma là quặng apatit còn quặng photphat trầm tích là quặng photphorit. Quặng apatit có kích thước tinh thể lớn hơn 40 micron.

Apatit là nguồn chính cung cấp photpho cần thiết cho cây trồng, gia súc và con người. Đồng thời là nguyên liệu cơ bản cho sản xuất phân lân, hóa chất và dược phẩm. Các hợp chất phốt phát là nguồn cung cấp dinh dưỡng và năng lượng cho cây trồng. Đối với sự sinh trưởng của cây trồng, phốtpho đóng vai trò quan trọng thứ hai, chỉ sau nitơ.

1.1.2. Thành phần quặng apatit 

Apatit là một nhóm các khoáng vật phosphat bao gồm: Các loại apatit này được gọi tên do trong thành phần tinh thể của chúng có chứa các ion OH, F và Cl. Công thức chung của apatit thường được biểu diễn theo dạng nhóm thành phần như Ca5(PO4)3(OH, F, Cl), hoặc theo công thức riêng của từng loại khoáng vật riêng lẻ tương ứng như: Ca5(PO4)3(OH), Ca5(PO4)3F và Ca5(PO4)3Cl.

1.1.3. Phân loại quặng apatit

Tùy thuộc vào hàm lượng P2O5 có trong quặng apatit mà người ta chia thành các loại quặng khác nhau, trong đó có:

  • Quặng giàu: là quặng I (trên 18% P2O5).
  • Quặng trung bình: là quặng II (8 – 18% P2O5).
  • Quặng nghèo: là quặng III (5 – 8% P2O5).
  • Quặng rất nghèo: là quặng IV (3 – 5% P2O5).

1.1.4. Vai trò của quặng apatit

Quặng apatit được sử dụng với các mục đích khác nhau, cụ thể:

1.1.5. Sản xuất các loại phân bón chứa phốt pho

Khoảng 90% sản lượng quặng phôtphat thế giới được dùng để sản xuất phân bón.

Các sản phẩm phân lân bao gồm :

  • Super Phosphate đơn (SSP) có hàm lượng 15,5÷16% P2O5.
  • Super Phosphate kép (TSP) với hàm lượng 46% P2O5 hữu hiệu.

Phân lân nung chảy :

  • FMP (Magnesium Phosphate nung chảy) hàm lượng 15÷15,5% P2O5 hữu hiệu.
  • MDCP (Mono Dicalcium Phosphate).
  • MKP (Phosphate kali đơn hoá trị), TCP (Tri Calcium Phosphate).

Các loại phân phức hợp nhiều thành phần dinh dưỡng:

  • MAP (Mono-Ammonium Phosphate ).
  • DAP (diammonium phosphate ).
  • NPK , NP (phân bón khoáng trộn).
  • APP (ammonium polyphosphate).

1.1.6. Thức ăn gia súc (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

Dùng quặng photphat để sản xuất phụ gia thức ăn cho gia súc. Quy trình sản xuất các phụ gia photphat cho thức ăn gia súc có nhiều điểm tương tự quy trình sản xuất phân hóa học. Mục đích của cả 2 quy trình đều là chuyển photpho ở dạng không hấp thụ được cho cây trồng (hoặc gia súc) thành dạng hấp thụ được.

Nhưng khi sản xuất phụ gia thức ăn gia súc thì việc chuyển photpho sang dạng hấp thụ được có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều, ngoài ra những nguyên tố có hại cho sức khỏe gia súc (như flo) phải được giảm xuống dưới mức cho phép.

Phốt pho vàng và các sản phẩm kĩ thuật

  • Phốt pho vàng và các sản phẩm làm trực tiếp từ phốt pho vàng như phôtpho đỏ, axit phôtphoric nhiệt.
  • Các sản phẩm muối phôtphat kỹ thuật như chất khử nước cứng, chất tẩy rửa, làm sạch bề mặt kim loại khi sơn, mạ…

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

1.2. Quặng apatit trên thế giới

1.2.1. Trữ lượng và phân bố quặng trên thế giới

Theo thống kê, trữ lượng quặng photphat trên thế giới hiện vào khoảng 63,1 tỷ tấn P2O5 , đủ dùng trong 450 – 500 năm, trong đó 91,6% (khoảng 57,2 tỷ tấn P2O5) là quặng photphorit và 8,4% (5,3 tỷ tấn P2O5) ở dạng apatit.

Những bể quặng apatit chủ yếu phân bố ở Nga, Cộng hòa Nam Phi, Braxin, Phần Lan, Dimbabue, Canada, còn photphrit có ở nhiều nơi nhất là ở Châu Phi, Bắc Mĩ.

Những số liệu trữ lượng này thường xuyên thay đổi do khai thác hàng năm và kết quả thăm dò mỏ mới.

1.2.2. Phương pháp khai thác quặng trên thế giới (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

 Có hai phương pháp khai thác mỏ quặng:

  • Lộ thiên.
  • Đào hầm.

a, Khai thác lộ thiên

Gồm các bước sau:

  • Cào lớp đất đá vô quặng lên và vận chuyển đi nơi khác.
  • Lấy lớp đất đá có quặng và xử lý trích quặng.

Ưu điểm:

  • Đây là phương pháp thông dụng.
  • Công cụ khai thác đơn giản.

Nhược điểm:

  • Thay đổi cảnh quan khu vực sau khi khai thác.
  • Dân địa phương phải dọn đi sinh sống ở nơi khác.
  • Cây cối bị đốn để giải phóng địa bàn cho công trường khai đào.
  • Một lượng lớn đất bị khai đào và chất đống ở nơi khác.
  • Sinh ra nhiều bụi trong quá trình vận chuyển quặng và vận chuyển đất đá thải.

b, Khai thác đào hầm

Gồm các bước sau:

  • Đào hai cái giếng ở hai đầu khu mỏ. Một giếng dùng để thổi gió thông hơi hầm và một giếng dùng để thoát gió.
  • Dưới mặt đất, người ta đào một mạng đường hầm liên kết hai giếng này. Hai giếng và mạng đường hầm cũng dùng để người lên xuống đi lại và để vận chuyển khí cụ, vật liệu và đất đá.

Ưu điểm:

  • Cảnh quan thiên nhiên ít bị xâm phạm hơn khai thác lộ thiên.

Nhược điểm:

  • Dễ sụt lún, sập hầm.
  • Tỷ lệ công nhân bị tai nạn cao hơn so với khai thác lộ thiên.

Tùy theo điều kiện cấu trúc, thế nằm và đặc điểm địa chất của từng mỏ quặng mà người ta đưa ra phương pháp khai thác, công nghệ khai thác và thiết bị khai thác thích hợp.

Xu hướng chung là đi đến lựa chọn công nghệ và thiết bị khai thác mỏ tối ưu, khai thác triệt để tài nguyên chính, tài nguyên đi kèm và tuyển chọn tách chúng ra thành những sản phẩm có giá trị, các khâu công nghệ thường được cơ giới hóa và tự động hóa rất cao.

1.2.3. Công nghệ tuyển quặng trên thế giới (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

Tuyển nổi là quá trình được sử dụng phổ biến trong tinh chế quặng, trong đó không khí được sục vào hỗn hợp bùn gồm quặng, nước và hóa chất để tạo thành bọt. Nguyên liệu khoáng hoặc phế thải sẽ bám dính vào bọt không khí và nhờ đó có thể tách ra ở dòng trên.

Trên thế giới, xu hướng hiện nay:

  • Xây nhà xưởng nhỏ gọn, thiết bị công suất lớn, độ bền
  • Lựa chọn công nghệ tuyển và thuốc tuyển tối ưu, thực thu tinh quặng ở mức tối đa và tuyển tách các sản phẩm đi cùng (nếu có).
  • Tự động hóa cao các dây chuyền tuyển.
  • Tuyển các loại quặng có hàm lượng nghèo, thậm chí rất nghèo (ví dụ: Phần Lan tuyển quặng apatit có hàm lượng quặng đầu 4% P2O5).
  • Giảm tối đa chi phí điện năng, thuốc tuyển và vật liệu phụ.
  • Xây dựng các nhà máy chế biến tinh quặng liền kề với nhà máy tuyển để chế biến thành sản phẩm.

1.2.4. Tình hình khai thác và sử dụng quặng apatit trên thế giới

IFA (Hiệp hội Phân bón Quốc tế) đã nêu lên mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức tăng dân số thế giới và mức tăng sản lượng khai thác photphat. Theo tính toán, đến năm 2040 dân số đạt 9,2 tỷ người thì sản lượng khai thác photphat đạt 260 – 300 triệu tấn.

Quặng apatit được khai thác và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Trên thế giới, xu hướng hiện tại đầu tư sản xuất DAP và MAP.

Theo FAO (Tổ chức Nông Lương Liên Hợp quốc), châu Phi vẫn là nhà xuất khẩu lớn phốt phát, sẽ tăng xuất khẩu đạm, nhưng đồng thời sẽ phải nhập kali. Các nước Bắc Mỹ gồm Mêhicô, Mỹ và Canađa vẫn là những nước nhập khẩu đạm, thiếu phốt phát, nhưng là những nước xuất khẩu kali, trong khi châu Á có thể giữ vị trí đầu bảng về xuất khẩu đạm, nhưng lại phải nhập phốt phát và kali.

  • Vấn đề môi trường từ khai thác quặng apatit trên thế giới

Ngành khai khoáng thế giới đang đứng trước những thách thức lớn: Tình trạng khai thác hiện tại là không bền vững, sự tuỳ tiện khai thác sử dụng tài nguyên của con người đang dẫn đến nguy cơ khủng hoảng tài nguyên và các vấn đề môi trường.

Trong quá trình khai thác khoáng sản cụ thể là quặng apatit, có những vấn đề sau:

  • Bùng nổ dân số quanh khu mỏ ở những vùng xa xôi hẻo lánh ảnh hưởng đến động thực vật hoang dã và đa dạng sinh học.
  • Quá trình khai thác mỏ không phát thải nhiều vào khí quyển, tuy nhiên việc khai thác mỏ lại tạo rủi ro đáng kể làm biến dạng đối với bề mặt trái đất và hạ mực nước ngầm.
  • Khai thác mỏ tạo ra khối lượng đất đá thải và quặng đuôi lớn, có chứa cả các chất độc hại.

1.3. Quặng apatit ở Việt Nam (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

Quặng apatit Việt Nam chỉ được phát hiện tại tỉnh Lào Cai.

1.3.1. Đặc điểm của quặng apatit Lào Cai

Quặng apatit Lào Cai thực chất là một kiểu metaphotphorit trầm tích biển nhưng đã bị biến chất. Đây là loại quặng photphat – cacbonat ở dạng hỗn hợp francolit hoặc floapatit với đolomit. Do biến chất và phong hóa, francolit biến đổi thành floapatit do mất CO2.

Tuy có nguồn gốc trầm tích nhưng do bị biến chất nên kích thước tinh thể floapatit của metaphotphorit Lào Cai xấp xỉ bằng kích thước tinh thể floapatit của quặng apatit – nephelin Khibin (Kola) có nguồn gốc macma.

1.3.2. Thành phần quặng apatit Lào Cai

Quặng apatit Lào Cai là loại quặng thuộc thành hệ metan phosphorit (apatit-dolomit), là thành hệ chủ yếu được sử dụng cho ngành công nghiệp sản xuất phân bón chứa lân ở Việt Nam.

Khoáng vật apatit đều có cấu trúc Ca5F (PO4)3 thuộc loại fluoapatit, trong đó có khoảng 42,26% P2O5; 3,78% F và khoảng 50%CaO.

Khoáng vật apatit phân bố trong tầng đá cacbonat-thạch anh, hoặc cacbonat muscovite.

1.3.3. Phân loại quặng apatit

Dựa vào sự hình thành và thành phần vật chất trong khoáng sản apatit Lào Cai phân chia ra 4 loại quặng khác nhau: (KS: kocsan)

  • Quặng loại I: Là loại quặng aptatit hầu như đơn khoáng thuộc phần không phong hóa của tầng quặng KS5, hàm lượng P2O5 chiếm khoảng từ 28- 40%.
  • Quặng loại II: Là quặng apatit-dolomit thuộc phần chưa phong hóa của tầng quặng KS5, hàm lượng P2O5 chiếm khoảng 18-25%.
  • Quặng loại III: Là quặng apatit-thạch anh thuộc phần phong hóa của tầng dưới quặng KS4 và trên quặng KS6 và KS7, hàm lượng P2O5 chiếm khoảng từ 12-20%, trung bình khoảng 15%.
  • Quặng loại IV: Là quặng apatit-thạch anh-dolomit thuộc phần chưa phong hóa của tầng dưới quặng KS4 và các tầng trên quặng KS6 và KS7, hàm lượng P2O5 khoảng 8-10%.

1.3.4. Phân bố và trữ lượng quặng apatit Lào Cai (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

Việt Nam chỉ phát hiện apatit tại Lào Cai với trữ lượng khoảng 2,5 tỷ tấn. Mỏ Apatit Lào Cai nằm về hữu ngạn sông Hồng với chiều dài khoảng 100 km từ Lũng Pô (giáp Trung Quốc) qua Bát Xát đến Bảo Hà thuộc tỉnh Lào Cai, với chiều rộng từ 1 đến 4 km. Căn cứ vào sự phân bố các vỉa quặng cũng như mức độ tìm kiếm, thăm dò có thể chia vùng mỏ thành 3 phân vùng và 20 khu mỏ như sau:

a. Phân vùng Bát Xát – Ngòi Bo:

Là trung tâm của khoáng sản Apatit Lào Cai, có chiều dài 33,5 km, là vùng có trữ lượng quặng lớn và ổn định nhất, đã đầu tư nhiều công trình thăm dò, trữ lượng quặng tính đến cấp A+B+C1, gồm các khu mỏ: Bắc Nhạc Sơn, Làng Mòn, Ngòi Đum – Đông Hồ, Làng Tác, Ngòi Đum – Làng Tác, Cam Đường 1,2,3; mỏ Cóc, Làng Cáng 1, 2, 3, 4 và Làng Mô.

Trữ lượng quặng apatít đã được thăm dò và xác định trữ lượng của phân vùng Bát Xát – Ngòi Bo là 778 triệu tấn, trong đó:

  • Quặng loại I là 31 triệu tấn.
  • Quặng loại II là 234 triệu tấn.
  • Quặng loại III là 222 triệu tấn.
  • Quặng loại IV là 291 triệu tấn.

b. Phân vùng Ngòi Bo – Bảo Hà:

Nằm về phía Đông Nam phân vùng Bát Xát-Ngòi Bo. Số liệu thăm dò địa chất chưa đầy đủ. Trữ lượng quặng tính ở cấp C1+C2, gồm các khu mỏ Ngòi Bo

– Ngòi Chát, Phú Nhuận, Ngòi Chăm – Làng Thi và Tam Đỉnh – Làng Phúng.

c. Phân vùng Bát Xát – Lũng Pô:

Nằm về phía Tây Bắc phân vùng Bát Xát-Ngòi Bo. Mới chỉ tiến hành công tác đo vẽ địa chất tỷ lệ 1/25.000. Chưa tiến hành công tác thăm dò. Trữ lượng dự tính ở cấp C2 đến P1, gồm các khu mỏ Nậm Chạc, Trịnh Tường và Bản Vược.

Các số liệu trữ lượng dự báo đối với các mỏ thuộc phân vùng Bát Xát – Lũng Pô như sau:

Mỏ apatit Nậm Chạc

  • Có 1 vỉa quặng loại I, hàm lượng P2O5: 35,01% (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )
  • Có 3 vỉa quặng loại III, hàm lượng P2O5: 17,16%
  • 1 vỉa quặng loại II và 3 vỉa quặng loại
  • Chiều dày vỉa quặng : 2,4-17,5m, dài 8.200m
  • Trữ lượng quặng loại I-III cấp C2+P1: 6,272 triệu tấn

Mỏ apatit Trịnh Tường

  • Có 1 vỉa quặng loại I, hàm lượng P2O5: 35,01%
  • Có 3 vỉa quặng loại III, hàm lượng P2O5: 17,16%.
  • Các vỉa dày 1,3-8m, dài 820-1.800m.
  • Trữ lượng quặng loại I-III cấp C2+P1: 3,652 triêụ tấn

Mỏ apatit Bản Vược

  • Có hai vỉa quặng loại III dày 6,2-10,1m, dài 1.250-1.300m.
  • Hàm lượng P2O5: 13-26%.
  • Trữ lượng quặng loại III cấp C2+P1: 3,242 triệu tấn

Tổng trữ lượng quặng I+III ở cấp C2+P1 của cả 3 mỏ nêu trên là 13 triệu tấn, tức chỉ bằng 5,1% trữ lượng quặng cùng loại của phân vùng Bát Xát-Ngòi Bo.

1.3.5. Phương pháp khai thác quặng apatit tại Việt Nam

Hiện nay việc áp dụng phương pháp khai thác lộ thiên tại các mỏ quặng apatit với các khâu công nghệ sau :

  • Khoan nổ mìn để phá vỡ đất đá nguyên khối.
  • Sử dụng máy xúc để xúc đất đá và quặng lên phương tiện vận tải.
  • Vận tải bằng ô tô chuyển đất đá từ khai trường về bãi thải và quặng về kho chứa bằng ô tô hoặc đường sắt. Tiêu thụ quặng theo hệ thống đường sắt quốc

Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế kỹ thuật khu vực và trên thế giới, tại Việt Nam các chủng loại thiết bị khai thác mỏ lộ thiên mới đã được sử dụng rộng rãi và làm việc có hiệu quả cao trong khai thác chọn lọc các loại quặng khác nhau như than, thiếc, apatit, pirit… Việc sử dụng các thiết bị đồng bộ và áp dụng các phương pháp khai thác hợp lý giúp tăng năng suất lao động, giảm giá thành và cho phép khai thác tận thu nguồn tài nguyên quý hiếm của đất nước với hiệu suất thu hồi lớn nhất.

1.3.6. Công nghệ tuyển quặng tai Việt Nam (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

Việt Nam sử dụng công nghệ tuyển nổi quặng do các chuyên gia Liên Xô cũ nghiên cứu và lắp đặt. Các khâu công nghệ, các thông số công nghệ theo thiết kế được đánh giá chung là hợp lý.

  • Các thiết bị công nghệ có độ bền tương đối cao (trừ các thiết bị thuộc hệ thống đo lường – tự động hóa).
  • Hệ số an toàn của thiết bị cao, có thể nâng công suất thiết bị lên từ 10 – 18% (tùy theo cụ thể từng máy).
  • Thiết bị dễ vận hành, dễ sửa chữa và thay thế.
  • Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại:

  Hệ thống thiết bị đo lường tự động hóa, bảng mô phỏng, tín hiệu báo, đo, cân… là những thiết bị có độ bền và độ chính xác kém. Hiện nay gần như những thiết bị này đã bị tê liệt hoàn toàn.

  Việc xử lý trung hòa quặng đầu để đảm bảo ổn định hàm lượng P2O5 và hàm lượng các oxit chưa được giải quyết triệt để, gây khó khăn cho việc điều chỉnh công nghệ của nhà máy.

  Nhà máy còn đang hoạt động ở 2/3 công suất, nên thiết bị trong công nghệ thường phát sinh cục bộ, thiếu sự đồng bộ, gây mất ổn định quá trình tuyển ở một số khâu.

1.3.7. Tình hình khai thác quặng apatit tai Việt Nam

Tính theo đầu người vào thời điểm 2005, Việt Nam mới chỉ đạt 3,7kg phân bón chứa lân tính trên đầu người, trong khi thế giới là 8,16 kg/người(quy về P2O5). Để đạt được mức trung bình của thế giới vào năm 2020, mức tăng trưởng về chế biến phân bón phải đạt 16% năm. Ngoài ra, việc mở rộng diện tích phát triển các cây công nghiệp trên các vùng trung du, miền núi đòi hỏi nhiều phân bón giàu chất dinh dưỡng. Chính vì vậy nhu cầu về phân bón chứa lân ngày càng cao, do đó tốc độ khai thác quặng apatit cũng tăng theo.

Hiện nay Việt Nam đã sản xuất được photpho vàng làm nguyên liệu sản xuất axit photphoric, các sản phẩm gốc photpho và các loại phân bón như supe lân, phân lân nung chảy, phân NPK, DAP.

Tuy đã đẩy mạnh sản xuất trong nhiều năm nay, nhưng hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu phân bón. Các loại phân bón chủ yếu phải nhập là phân đạm urê, phân kali, phân đạm SA, phân DAP và MAP và NPK.

1.3.8. Vấn đề môi trường từ khai thác quặng apatit tại Việt Nam (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

Tại Việt Nam, cũng như hoạt động khai thác tại các mỏ khoáng sản khác thì tại mỏ khai thác quặng apatit hiện nay đã được khai thác từ hàng chục năm nay và bây giờ phần trữ lượng khoáng sản có hàm lượng cao đã hết. Trong trường hợp này, các phương pháp khai thác thủ công được áp dụng để tiếp tục sản xuất và duy trì việc làm cho công nhân mỏ. Như vậy, người ta chỉ có thể khai thác quặng có hàm lượng thấp, các trữ lượng khoáng sản nhỏ hoặc túi quặng và không thể khai thác bằng máy móc. Tuy nhiên, kiểu khai thác này có thể sẽ ảnh hưởng xấu tới đất nông nghiệp cũng như việc sử dụng   đất một cách bền vững. Ở nhiều trường hợp nó còn gây khó khăn cho việc quy hoạch chung.

Việc khai thác mỏ, đặc biệt là các hoạt động khai thác mỏ lộ thiên, đã làm tăng khối lượng các chất thải ở dạng quặng đuôi hoặc đất đá thải. Quặng đuôi là các sản phẩm mịn còn lại (sau khi đã tuyển và thu quặng tinh) sẽ được thải ra các hồ thải. Ở những hồ chứa cũ do không được bảo trì tốt nên vật liệu thải bị thoát ra các vùng đất xung quanh và các con sông, suối ở gần đó. Những vật liệu thải này, ở các dạng rất mịn, là những nguồn ô nhiễm chính cho các hoạt động khai thác khoáng sản khác và các nguồn nước.

Việc ô nhiễm nước tự nhiên là khá phổ biến ở hầu hết các khu vực khai thác mỏ. Những ô nhiễm này có thể chia thành các nhóm như sau:

a, Ô nhiễm nước:

  • Ô nhiễm nước do các chất rắn lơ lửng từ quá trình khai thác khoáng sản tạo Những chất ô nhiễm này tuy không gây độc hại trực tiếp nhưng sẽ làm cho nước không phù hợp cho sinh hoạt và ảnh hưởng xấu tới các loại sinh vật thủy sinh ở sông suối.
  • Ô nhiễm nước do kim loại hòa tan như Fe, Zn, Cd…. trong nước của các nhà máy tuyển khoáng. Hiện tượng này phụ thuộc vào thành phần của loại quặng đem tuyển, còn mức độ hòa tan thì bị tác động bởi sự có mặt của các khoáng vật sunfua và các dung dịch axit liên đới.

b, Ô nhiễm không khí:

  • Ô nhiễm không khí và bụi liên quan đến các hoạt động khai thác mỏ chủ yếu do vận chuyển trên các con đường đất bẩn. Nó sẽ ảnh hưởng đến đời sống của người dân sống hai bên đường.
  • Tiếng ồn và chấn động của các hoạt động khai thác mỏ và các nhà máy tuyển khoáng là những vấn đề không quan trọng lắm nhưng công nhân mỏ cũng có thể bị ảnh hưởng khi các thiết bị khai thác, thiết bị tuyển làm việc và do nổ mìn. Các nhà máy tuyển khoáng và luyện kim thường đặt bên trong các khu vực có dân cư và vì thế tiếng ồn và chấn động thường làm cho người dân địa phương cũng như người dân sống dọc theo các con đường vận chuyển quặng và các khoáng sản mất đi sự yên tĩnh.

c, Ô nhiễm đất: (Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit )

  • Ô nhiễm đất liên quan tới các hoạt động khai thác mỏ là một vấn đề chỉ giới hạn trong phạm vi địa lý hẹp. Nhưng nồng độ asen cao trong đất đá thải của một số nhà máy tuyển đang là một lời cảnh báo tới sức khỏe con người.

Thực hiện nghiêm túc luật bảo vệ môi trường, trong những năm gần đây đa phần các mỏ lộ thiên trung bình và lớn đã có quan tâm và thực hiện các trách nhiệm môi trường của mình, chất lượng môi trường từng mỏ có được cải thiện. Tuy vậy đối với từng khoáng sản, từng vùng mỏ vẫn còn những vấn đề bức xúc về suy giảm môi trường nằm ngoài khả năng kiểm soát của mỗi mỏ, cần được giải quyết ở quy mô lớn hơn hoặc có sự liên kết của các mỏ liên đới trách nhiệm trong vùng. Riêng đối với hầu hết các mỏ nhỏ và điểm mỏ thì hiện tượng khai thác bừa bãi không có hoặc không theo thiết kế dẫn đến gây tổn thất tài nguyên, ô nhiễm môi trường trầm trọng và làm xấu cảnh quan khu vực vẫn ở tình trạng bảo động. [2]

Cùng với các nhà máy tuyển luyện khác, nhà máy tuyển Tằng Lỏong là một trong các nhà máy cũng ít nhiều gặp phải những vấn đề về môi trường cần được sự quan tâm của cơ quan chính quyền nhà nước để tránh được những ảnh hưởng tác động đến môi trường xung quanh và sức khỏe công nhân

Mời bạn tham khảo thêm:

Khóa luận: Thực trạng quản lý môi trường tuyến tinh quặng Apatit

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Khóa luận tốt nghiệp: Hiện trạng môi trường tuyến tinh quặng Apatit […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993