Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình

Rate this post

Nhận biết được sự phát triển mạnh mẽ của du lịch thế giới khi tìm hiểu và học tập chuyên ngành Du Lịch, tác giả đã lấy Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác các điểm du lịch tại Ninh Bình làm bài luận văn tốt nghiệp của mình. Trong những năm gần đây, du lịch Việt Nam đang từng bước tỏa sáng và khẳng định thương hiệu của mình trên trường quốc tế. Phát triển du lịch không chỉ tận dụng triệt để tài nguyên, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân mà quan trọng hơn, du lịch đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và được khai thác đỉnh điểm ở đề tài: Tiềm năng và giải pháp khai thác các điểm du lịch tại Ninh Bình.

Nội dung chính

Lời Mở Đầu

1. Lí do chọn đề tài

Được mệnh danh là “ngành công nghiệp không khói”, du lịch ra đời và nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế. Nó trở thành một ngành có thế mạnh đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển du lịch không chỉ tận dụng triệt để tài nguyên, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân mà quan trọng hơn, du lịch đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Ngành du lịch đang thực sự trở thành “con gà đẻ trứng vàng” của nền kinh tế.

Điều này được minh chứng bằng rất nhiều sự kiện nổi bật như các lễ hội du lịch theo chủ đề được tổ chức tại các vùng miền như Festival Hoa Đà Lạt, Festival Huế, Lễ hội bắn pháo hoa quốc tế Đà Nẵng (được tổ chức hàng năm), Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội (2010), Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) được công nhận là một trong bảy Kì quan Thiên nhiên thế giới (2012), Festival Đờn ca tài tử Bạc Liêu (2014) …

Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực Nam của Đồng bằng sông Hồng, được đánh giá là vùng đất giàu tiềm năng về du lịch như vị trí địa lí thuận lợi, điều kiện tự nhiên phong phú, là vùng đất “địa linh nhân kiệt” với bề dày lịch sử lâu đời, là Kinh đô xưa của các triều đại Đinh và Tiền Lê. Chính thiên nhiên, lịch sử, con người nơi đây đã tạo cho Ninh Bình những cảnh quan cực kì hấp dẫn cả về tự nhiên lẫn văn hóa, xã hội, không chỉ mang ý nghĩa địa phương mà còn có ý nghĩa mang tầm quốc gia và quốc tế như: Tam Cốc – Bích Động, được mệnh danh là” Nam Thiên Đệ Nhị Động”, khu du lịch Tràng An, được ví như “ Hạ Long trên cạn “. Ninh Bình còn hấp dẫn du khách bởi các quần thể Du lịch kỳ thú và những địa danh như: Vườn quốc gia Cúc Phương, Suối nước nóng Kênh Gà, khu Du lịch sinh thái ngập nước Vân Long, động Vân Trình, nhà thờ đá Phát Diệm, Động Mã Tiên, chùa Bái Đính…

Mặc dù tiềm năng phát triển du lịch to lớn như vậy, nhưng trong những năm qua, việc phát triển du lịch của tỉnh Ninh Bình nhìn chung vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng hiện có. Điều này thể hiện qua tỉ trọng đóng góp của ngành du lịch còn khá thấp trong cơ cấu kinh tế, hiện tượng sử dụng lãng phí tài nguyên vẫn đang diễn ra. Do đó, muốn du lịch Ninh Bình đi vào quỹ đạo chung của sự phát triển, cần phải khai thác triệt để tài nguyên và thế mạnh trong vùng để tạo ra những sản phẩm du lịch đặc trưng hấp dẫn.

Vì những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “ Tiềm năng và giải pháp khai thác các điểm du lịch tại Ninh Bình” nhằm góp phần tìm ra lời giải đáp cho bài toán phát triển du lịch một cách bền vững ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới, tương xứng với tiềm năng và lợi thế sẵn có.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

  • Mục tiêu:

Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu đã có về lí luận cũng như thực tiễn và vận dụng vào địa bàn tỉnh Ninh Bình, mục tiêu chủ yếu của đề tài là tìm hiểu tình hình phát triển du lịch của Ninh Bình để từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm khai thác ngành này có hiệu quả và bền vững ở vùng đất cố đô.

  • Nhiệm vụ:

+ Nghiên cứu tổng quan về du lịch và tài nguyên du lịch (vị trí địa lí, tài nguyên du lịch, dân cư lao động…vv…)

+ Đánh giá thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Ninh Bình

+ Đề xuất các giải pháp để phát triển hơn nữa ngành du lịch tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

  • Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu, phân tích về tài nguyên du lịch, thực trạng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, cũng như về số khách, doanh thu và lao động ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển hiệu quả hơn du lịch của tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
  • Đối tượng : Tiềm năng du lịch và giải pháp khai thác

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu

Đối với hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học nói chung, phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tich tài liệu, xử lí số liệu thống kê được coi là phương pháp phổ biến và cực kì quan trọng. Việc vận dụng phương pháp này nhằm đảm bảo tính kế thừa những nghiên cứu trước đó.

Bên cạnh việc thu thập các dữ liệu từ các nguồn như sách, giáo trình, báo, tạp chí chuyên ngành, các báo cáo, các đề tài nghiên cứu khoa học của tỉnh Ninh Bình, Tổng Cục Du lịch, Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch, các thông in trên mạng internet … Các tài liệu có được trong quá trình thu thập phục vụ đề tài này hầu hết từ các nguồn chính thống như Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Bình, Cục Thống kê Ninh Bình …

Sau khi thu thập đầy đủ các tài liệu cần thiết, tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp các tài liệu phục vụ cho việc đánh giá thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Ninh Bình, từ đó đề xuất những giải pháp cần thiết góp phần thúc đẩy du lịch Ninh Bình phát triển hơn nữa trong thời gian tới.

4.2. Phương pháp phân tích, so sánh

Đây cũng là một trong những phương pháp rất quan trọng, không thể thiếu được trong quá trình làm đề tài. Trong khi thực hiện đề tài về phát triển du lịch của tỉnh Ninh Bình, phương pháp này đã phát huy rất rõ vai trò của mình, nó giúp cho việc nhận định, đánh giá, dự báo trên cơ sở phân tích các số liệu thống kê và phép đối chiếu so sánh khoa học đạt được những kết quả nhất định. Qua việc các số liệu, các thông tin được đưa vào xử lí, phân tích, so sánh đã giúp cho việc đưa ra những kết luận, những nhận định có giá trị thực tiễn cao.

4.3. Phương pháp bản đồ

Trong quá trình nghiên cứu của bất kì một đề tài khoa học nào về mặt không gian lãnh thổ lại không sử dụng phương pháp bản đồ. Đặc biệt là với các đề tài nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực địa lí, phương pháp bản đồ càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bằng một thứ “ngôn ngữ” tổng hợp , trực quan, bản đồ trở thành một loại tư liệu cần thiết khi đánh giá tiềm năng, phân tích thực trạng phát triển du lịch của một lãnh thổ nào đó.

Trong quá trình thực hiện đề tài “Tiềm năng và giải pháp khai thác các điểm du lịch tại Ninh Bình”, tác giả đã sử dụng phương pháp bản đồ trên cơ sở bản đồ nền là các bản đồ đã được quét dạng ảnh (bản đồ hành chính, bản đồ giao thông…) để xây dựng nên các bản đồ tổng quan, tài nguyên du lịch và hiện trạng phát triển du lịch ở Ninh Bình.

4.4. Phương pháp khảo sát thực địa

Khảo sát thực địa là phương pháp nghiên cứu truyền thống nhưng lại là công việc bắt buộc đối với mỗi đề tài nghiên cứu. Việc có mặt tại thực địa, quan sát trực tiếp và phỏng vấn những người có trách nhiệm các vấn đề có liên quan tới đề tài là rất cần thiêt. Để từ đó bổ xung cho lý luận được hoàn chỉnh. Là cơ sở đánh giá ban đầu và thẩm định lại trong quá trình nghiên cứu. Trên cơ sở đó giúp đề ra các giải pháp hợp lý và khả thi.

5. Đóng góp mới của đề tài ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

Đề tài luận văn có những đóng góp chủ yếu sau đây:

  • Góp phần làm sáng tỏ được cơ sở lí luận, thực tiễn theo hướng đề tài từ việc tổng quan các nghiên cứu đã có và vận dụng vào địa bàn tỉnh Ninh Bình.
  • Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển du lịch của tỉnh Ninh Bình, phát hiện được những thế mạnh và những hạn chế cần phải khắc phục.
  • Trình bày được thực trạng phát triển du lịch ở địa bàn nghiên cứu
  • Đề xuất được định hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm phát triển mạnh hơn, bền vững hơn ngành này ở Ninh Bình.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển du lịch.

Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình.

Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

1.1. Cơ sở lý luận ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

1.1.1. Các khái niệm

  • Du lịch

Du lịch không phải là một khái niệm mới lạ. Tuy nhiên, dưới mỗi góc độ nghiên cứu và tiếp cận khác nhau sẽ có những cách hiểu khác nhau về du lịch. Điều này thật đúng với nhận định của GS.TS. Berneker – một trong những chuyên gia hàng đầu về du lịch thế giới – rằng: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. ”. Điều đó cho thấy, việc thống nhất thành một khái niệm chung là một việc làm đặc biệt khó khăn.

Dưới góc độ địa lý du lịch, I.I.Pirogionic (1985) cho rằng: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”

Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) định nghĩa: “Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của một cá nhân đi đến và lưu trú tại những điểm ngoài nơi ở thường xuyên của họ trong thời gian không dài hơn một năm với mục đích nghỉ ngơi, công vụ và mục đích khác”

Ở Việt Nam, thuật ngữ du lịch được định nghĩa tại Điều 4 của Luật Du lịch (2005) như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”

Tuy tồn tại nhiều khái niệm khác nhau, nhưng nhìn chung mọi khái niệm đều có điểm giống nhau. Và “du lịch” có thể được hiểu là:

+Một hiện tượng Xã hội: nghĩa là: Du lịch là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh,có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng.

+ Một hiện tượng kinh tế, một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích: phục hồi sức, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.

Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp phần thúc đẩy sự phát triển của Du lịch. Cho đến nay không ít người, thậm chí cả cán bộ nhân viên đang làm việc trong nghành Du lịch chỉ cho rằng: “ Du lịch là một nghành Kinh tế”. Do đó,mục tiêu được quan tâm hàng đầu là mang lại hiệu quả kinh tế. điều đó đồng nghĩa với việc tận dụng triệt để mọi nguồn tài nguyên, mọi cơ hội để kinh doanh. Trong khi đó, Du lịch còn là một hiện tượng Xã hội, nó góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước, tình đoàn kết. Chính vì vậy, toàn xã hội phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho Du lịch phát triển như với giáo dục, thể thao hoặc một lĩnh vực Văn hóa khác.

  • Sản phẩm du lịch

Luật Du lịch Việt Nam (2005) nêu rõ: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”

Sản phẩm du lịch là một quá trình “trực tiếp” cho phép các doanh nghiệp và các cơ quan du lịch xác định khách hàng hiện tại và tiềm năng, ảnh hưởng đến ý

nguyện và sáng kiến khách hàng ở cấp độ địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế để các đơn vị này có thể thiết kế và tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm nâng cao sự hài lòng của khách và đạt được mục tiêu đề ra. ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

Sản phẩm du lịch bao gồm cả những sản phẩm vô hình và hữu hình. Nó là sự kết hợp của những thành phần tạo nên sự hấp dẫn và lực hút đối với du khách (như những cảnh quan, kỳ quan thiên nhiên, các di sản văn hóa, các di tích lịch sử …) với các dịch vụ du lịch (lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, mua sắm, thông tin …) và cơ sở du lịch (phương tiện vật chất, kỹ thuật, hạ tầng phục vụ du lịch) trên cơ sở khai thác các tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân văn) để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

  • Khách du lịch

Thực tế ở Việt Nam và trên thế giới có khá nhiều quan niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về khách du lịch.

Ở Việt Nam, tại Điều 4 của Luật Du lịch năm 2005 nêu rõ: “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. Cũng trong Luật này, tại Điều 34, quy định: ”1. Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. 2. Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. 3. Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”

Nhà Xã hội học người Canada Leonard Norman Cohen quan niệm: “Khách du lịch là một người tự nguyện, mang tính nhất thời, với mong muốn được giải trí từ những điều mới lạ và thay đổi thu nhận từ một chuyến đi tương đối xa và không thường xuyên”

Ngày 04/3/1993, theo đề nghị của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Hội đồng Thống kê Liên hợp quốc đã công nhận những thuật ngữ để thống nhất soạn thảo thống kê du lịch như sau:

  • Khách du lịch quốc tế (International Tourist) bao gồm :

+ Khách du lịch quốc tế đến (Inbound Tourist): Gồm những người từ nước ngoài đến du lịch một quốc gia.

+ Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài (Outbound Tourist): Gồm những người đang sống trong một quốc gia đi du lịch ra nước ngoài.

  • Khách du lịch trong nước (Internal Tourist): Gồm những người là công dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ của quốc gia đó đi du lịch trong nước.
  • Khách du lịch nội địa (Domestic Tourist): Gồm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế đến.
  • Khách du lịch quốc gia (National Tourist): Gồm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế ra nước ngoài.

1.1.2. Tài nguyên du lịch

“Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”( GS.TS Berneker). Đối với tài nguyên du lịch cũng vậy, dưới mỗi góc nhìn, mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau người ta lại đưa ra những khái niệm khác nhau về tài nguyên du lịch.

Theo I.I Pirojinik (1985): “Tài nguyên du lịch là những tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng giúp cho việc phục hồi, phát triển thể lực, tinh lực, khả năng lao động và sức khỏe của con người mà chúng được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để tạo ra dịch vụ du lịch gắn liền với nhu cầu ở thời điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện kinh tế – kĩ thuật cho phép”

Theo Nguyễn Minh Tuệ: “Tài nguyên du lịch là tất cả những gì thuộc về tự nhiên và các giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra có sức hấp dẫn du khách, có thể được bảo vệ, tôn tạo và sử dụng cho ngành du lịch mang lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường”

Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử – văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”

Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 còn phân chia tài nguyên du lịch làm hai loại “gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác”. Trong đó quy định rõ:

“Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.

Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”

1.2 Vai trò của du lịch ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa, xã hội ở các nước. Về mặt kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước công nghiệp phát triển. Việc phát triển du lịch sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, vì sản phẩm du lịch mang tính liên ngành có quan bệ đến nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Khi một khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách ở mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá dịch vụ tăng lên đáng kể. Hơn nữa, các hàng hoá, vật tư cho du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp, hấp dẫn. Do đó nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng sáng tạo cải tiến, phát triển các loại hàng hoá. Để làm được điều này, các doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư trang thiết bị hiện đại, tuyển chọn và sử dụng công nhân có tay nghề cao đáp ứng được nhu cầu của du khách.

Ngành du lịch ngày nay còn được gọi bằng cái tên không chính thức là ngành Công nghiệp không khói, nó giữ một vị trí cực kì quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Theo tài liệu Chỉ số Cạnh tranh Du lịch năm 2009 (TTCI 2009) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) thì ngành du lịch và lữ hành hiện chiếm khoảng 9,9 % GDP, 10,9 % xuất khẩu, và 9,4 % đầu tư của thế giới

Du lịch đã nộp hàng ngàn tỷ đồng vào ngân sách nhà nước mỗi năm. Ngoài ra cùng với sự phát triển của du lịch cũng dễ tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Với những thuận lợi, những mặt tích cực mà phát triển du lịch đem lại thì du lịch thực sự có khả năng làm thay đổi bộ mặt kinh tế của nước ta.

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển du lịch

1.3.1. Tài nguyên du lịch ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

Tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử, có tính linh hoạt cao. Do đó, khi đánh giá tài nguyên du lịch và xác định hướng khai thác, cần phải tính đến những thay đổi trong tương lai về nhu cầu cũng như khả năng kinh tế, kĩ thuật để khai thác các loại tài nguyên mới sao cho đạt hiệu quả cao nhất về mọi mặt.

  • Tài nguyên du lịch tự nhiên

Địa hình, khí hậu, nguồn nước, sinh vật là những thành phần tự nhiên tác động mạnh mẽ nhất đến hoạt động du lịch.

  • Địa hình

Mỗi đặc điểm hình thái của địa hình và các dạng địa hình đặc biệt sẽ có sức hấp dẫn đối với du khách.

Địa hình vùng núi là nơi có tiềm năng lớn nhất trong việc tổ chức các hoạt động du lịch. Khu vực này ở những độ cao nhất định thường có khí hậu ôn hòa, không khí trong lành thuận lợi cho nghỉ ngơi, an dưỡng, tổ chức các hoạt động thể thao. Miền núi còn là nơi tập trung nhiều loài động – thực vật, với những cảnh quan địa hình đa dạng tạo nên một nguồn tài nguyên du lịch tổng hợp có giá trị cao cho việc khai thác phát triển du lịch.

Ở địa hình đồi, thường là nơi có không gian thoáng đãng thích hợp cho các hoạt động dã ngoại, cắm trại, tham quan … Nơi đây dân cư thường tập trung đông đúc, có truyền thống sản xuất phong phú, đa dạng, lâu đời; thường là nơi có nhiều di tích khảo cổ, tài nguyên văn hóa lịch sử độc đáo thuận lợi cho việc khai thác phát triển du lịch đặc biệt là các loại hình du lịch theo chuyên đề.

Còn ở dạng địa hình đồng bằng, đây là nơi dân cư tập trung đông đúc nhất, lâu đời nhất, kinh tế – xã hội phát triển nhất do đó có nền sản xuất phong phú, đa dạng nhất. Chính những yếu tố đó đã ẩn chứa một tiềm năng du lịch rất lớn.

Trong số các kiểu địa hình thì kiểu địa hình các xtơ và các kiểu địa hình ven bờ (ven biển, ven sông, ven hồ …) có giá trị đặc biệt lớn, thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của du khách.

Địa hình các xtơ là kiểu địa hình được thành tạo do sự lưu thông của nước trong các đá dễ hòa tan (đá vôi, đá phấn, thạch cao …). Các kiểu các xtơ có thể được tạo thành từ sự hòa tan của nước trên mặt cũng như của nước ngầm. Một trong những dạng địa hình karst được quan tâm nhất là các hang động các xtơ. Cảnh quan trong hang động các xtơ thường rất đa dạng, kì vĩ, có giá trị cao trong việc khai thác phát triển du lịch.

Địa hình ven bờ các đại dương, biển, hồ, sông … có ý nghĩa quan trọng đối với du lịch, đặc biệt là địa hình ven biển. Người ta có nhiều tiêu chí để đánh giá mức độ thuận lợi cho du lịch của các bãi biển như: dài, rộng, bằng phẳng, độ mặn, độ trong, sạch của nước … kết hợp với phong cảnh đẹp, hấp dẫn.

  • Khí hậu

Khí hậu là một trong những thành phần tự nhiên quan trọng, có vai trò to lớn trong việc tổ chức các hoạt động du lịch, trong đó nhiệt độ và độ ẩm không khí là hai yếu tố quan trọng nhất. Ngoài ra, đánh giá tài nguyên khí hậu cho mục đích phát triển du lịch còn dựa vào các yếu tố khác như gió, số giờ nắng, sự phân mùa và các hiện tượng thời tiết đặc biệt (bão, giông, lốc, lũ lụt, …) bởi vì chúng có tác động lớn đến việc tổ chức du lịch. Sự phân mùa của khí hậu dẫn đến các hoạt động du lịch cũng có tính mùa rõ rệt. Ở các vùng, các đới khí hậu khác nhau sẽ có những mùa du lịch khác nhau. Do tác động của yếu tố khí hậu mà tùy nơi, hoạt động du lịch có thể diễn ra quanh năm hay chỉ một vài tháng trong năm.

  • Nguồn nước

Nguồn tài nguyên nước có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động du lịch. Nó bao gồm nước trên bề mặt và nước trong lòng đất. Dù là ngọt hay mặn thì mỗi loại đều có những giá trị sử dụng phục vụ du lịch khác nhau.

Tài nguyên nước trên bề mặt, ngoài nguồn nước dồi dào trong các biển và đại dương bao la còn có trong các mạng lưới sông suối, ao, hồ… Các vùng nước ven bờ (biển, sông, hồ …) kết hợp với các tài nguyên khác như núi non, các hệ sinh thái … tạo ra những phong cảnh đẹp, hùng vĩ, nên thơ hấp dẫn khách du lịch.

Trên các vùng địa hình núi đồi, nguồn nước trong các sông suối có thể tạo ra các thác nước đẹp. Nơi đây có thể triển khai các hoạt động du lịch tham quan hoặc thể thao mạo hiểm.

Trong nguồn tài nguyên nước có thể khai thác phục vụ du lịch không thể không kể đến nguồn nước khoáng thiên nhiên. Trong nước khoáng thiên nhiên có chứa một số thành phần vật chất đặc biệt có tác dụng tốt đối với sức khỏe con người. Do đó nó có giá trị cao đối với việc phát triển loại hình du lịch an dưỡng, chữa bệnh. ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

  • Sinh vật

Tài nguyên sinh vật nói chung rất phong phú, đa dạng.

Tài nguyên sinh vật kết hợp với các loại tài nguyên khác (địa hình, khí hậu, nguồn nước …) vừa tạo nên phong cảnh đẹp, hấp dẫn thuận lợi cho du lịch phát triển, lại vừa có ý nghĩa bảo vệ môi trường.

Loại hình du lịch sinh thái được tạo ra dựa trên cơ sở các hệ động – thực vật. Có những hệ sinh thái phục vụ cho tham quan du lịch như: các thảm thực vật phong phú, đa dạng, độc đáo, điển hình (rừng nhiệt đới ẩm, rừng ngập mặn, rừng cây lá kim, …) các loại động vật quí hiếm, hoặc các loài phổ biến, đặc sản được phép săn bắn, khai thác phục vụ nhu cầu ẩm thực của du khách. Và sinh vật không chỉ là đối tượng để khai thác phục vụ du lịch một cách thuần túy mà chúng còn phục vụ cho mục đích chuyên sâu như nghiên cứu khoa học. Những nơi đó thường là các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia.

Nguồn sinh vật phong phú góp phần quan trọng vào việc đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng đa dạng của con người nhất là du lịch hướng về thiên nhiên.

  • Tài nguyên du lịch nhân văn

Tài nguyên du lịch nhân văn là các đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra trong suốt quá trình lịch sử và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn có mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, với các điều kiện kinh tế – xã hội, chịu sự chi phối của qui luật tự nhiên, qui luật phát triển văn hóa của con người. Do vậy ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia thường có một nguồn tài nguyên du lịch nhân văn nhất định, mang bản sắc riêng, độc đáo, lạ lẫm, thu hút du khách.

  • Di tích lịch sử, văn hóa

Di tích lịch sử, văn hóa là những di sản, những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng những giá trị điển hình về lịch sử, văn hóa do con người sáng tạo ra trong lịch sử để lại. Nó không những là tài sản quí giá mà còn là bằng chứng xác thực nhất, cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa, truyền thống tốt đẹp, tinh hoa, trí tuệ, tài năng của mỗi địa phương, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và của cả nhân loại.

Hiện nay, các di tích lịch sử, văn hóa được chia thành bốn nhóm chính, trong đó:

+ Di tích văn hóa khảo cổ: Là những địa điểm ẩn giấu một bộ phận giá trị văn hóa thuộc về thời kì xa xưa và thường nằm dưới lòng đất, trong các hang động hoặc dưới đáy biển, đại dương …

+ Di tích lịch sử: Là các di tích gắn với đặc điểm và quá trình phát triển của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Nó bao gồm các di tích ghi dấu về dân tộc học (sự ăn ở, sinh hoạt, sản xuất … của các tộc người), các sự kiện chính trị quan trọng hay các chiến công chống xâm lược hoặc tội ác của các thế lực phản động …

+ Di tích văn hóa nghệ thuật: Là các di tích gắn liền với các công trình kiến trúc có giá trị; các công trình văn hóa thuộc các lĩnh vực âm nhạc, văn học, nghệ thuật (điêu khắc, tranh vẽ, gốm sứ …).

+ Danh lam thắng cảnh: Là những nơi có phong cảnh đẹp hòa quyện với các công trình mang tính chất văn hóa, lịch sử, nghệ thuật.

  • Lễ hội

Lễ hội là một dạng tài nguyên nhân văn quan trọng. Đây là một loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong phú, là một kiểu sinh hoạt tập thể của người dân sau thời gian lao động mệt nhọc, hoặc là một dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại: hướng về tổ tiên, ông bà, ôn lại truyền thống, hoặc là để giải quyết những nỗi lo âu, những khát khao, mơ ước mà cuộc sống hiện tại chưa thể giải quyết được.

Lễ hội gồm hai phần là phần nghi lễ và phần hội.

Hầu hết trong các lễ hội thì hai phần lễ và hội thường hòa quyện với nhau, tuy nhiên trọng tâm vẫn là phần hội. Và thực tế thì trong bản thân phần hội đã bao hàm ý nghĩa tâm linh của phần lễ. Lễ hội thường diễn ra vào thời điểm được cho là linh thiêng, đánh dấu sự kết thúc và bắt đầu của một chu kì lao động sản xuất.

  • Nghề và làng nghề thủ công truyền thống

Các sản phẩm ra đời từ các làng nghề thủ công cổ truyền luôn mang những giá trị nhất định. Nó không chỉ có giá trị sử dụng cao mà còn có rất nhiều những giá trị khác như: giá trị nghệ thuật, giá trị tâm linh, giá trị triết học … thể hiện tài nghệ, ước vọng của những người làm ra chúng. Chính vì vậy, nghề, làng nghề thủ công truyền thống và các sản phẩm độc đáo của nó luôn có một sức hút mạnh mẽ đối với khách du lịch và các nhà làm du lịch.

  • Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học

Hầu hết trong mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đều có những dân tộc sinh sống cùng nhau. Tuy nhiên, mỗi dân tộc khác nhau lại có những điều kiện sống, đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán (sinh hoạt, sản xuất) khác nhau và có địa bàn cư trú nhất định. Những đặc thù của mỗi dân tộc tạo nên một sức hấp dẫn riêng đối với du khách. Tính đặc thù đó có thể là các tập tục lạ về cư trú, tổ chức xã hội, thói quen ăn uống, sinh hoạt, hay các nét truyền thống trong xây dựng, kiến trúc cũng như thiết kế các trang phục dân tộc. ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

  • Các tài nguyên du lịch nhân văn khác

+ Văn hóa ẩm thực:

Nghệ thuật ẩm thực là giá trị văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền được con người sáng tạo, bảo tồn và phát huy qua thời gian, là dấu ấn đặc biệt đối với khách du lịch.

+ Văn học dân gian:

Lịch sử phát triển văn học của mỗi quốc gia luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước. Những bài thơ hay, những tác phẩm văn học nổi tiếng sẽ là những chứng cứ tôn vinh cũng như tuyên truyền quảng bá những giá trị đặc sắc cho các thắng cảnh, các di sản văn hóa của các địa phương, các quốc gia. Vì vậy, nhiều địa phương, nhiều vùng đất, nhiều quốc gia trên thế giới nhờ có những bài thơ, những câu chuyện truyền thuyết, những tác phẩm văn học nổi tiếng đã khiến cho du khách muôn phương tìm đến thưởng thức, khám phá.

+ Các đối tượng văn hóa, thể thao và các hoạt động nhận thức khác cũng thu hút khá mạnh mẽ đối với khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Đó là các viện khoa học, các trường đại học, các thư viện nổi tiếng, các trung tâm triển lãm nghệ thuật, các cuộc thi đấu thể thao, các cuộc thi sân khấu, thi sắc đẹp, liên hoan phim …

1.3.2 Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng nói chung, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thúc đẩy các hoạt động du lịch.

  • Hệ thống giao thông vận tải

Du lịch gắn liền với sự di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất định. Vì vậy, hoạt động du lịch phụ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải bao gồm mạng lưới đường sá và phương tiện vận giao thông. Thực tế cho thấy, đối với nền kinh tế nói chung, ngành du lịch nói riêng, muốn phát triển được thì cần phải ưu tiên phát triển mạng lưới giao thông vận tải. Mạng lưới giao thông vận tải được coi là cầu nối giữa khách du lịch và nơi đến du lịch.

  • Hệ thống thông tin liên lạc

Thông tin liên lạc là một bộ phận không thể thiếu trong cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Nó là điều kiện cần thiết để đảm bảo nhu cầu thông tin cho khách du lịch trong và ngoài nước. Riêng với các nhà tổ chức du lịch thì các phương tiện thông tin liên lạc sẽ là những kênh quan trọng để quảng bá, giới thiệu hình ảnh và mời gọi khách du lịch đến với họ. Nói chung, hệ thống thông tin liên lạc phát triển sẽ đảm bảo việc vận chuyển tin tức một cách nhanh chóng, kịp thời, góp phần mở rộng các mối giao lưu hợp tác phát triển kinh tế nói chung, ngành du lịch nói riêng giữa các vùng miền, các quốc gia trên thế giới với nhau.

  • Hệ thống cung cấp điện, nước

Đây là điều kiện vô cùng cần thiết và quan trọng đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của khách du lịch. Các sản phẩm của nó phục vụ trực tiếp cho việc nghỉ ngơi, giải trí của du khách.

Tóm lại, cơ sở hạ tầng có một ý nghĩa quan trọng và thực sự trở thành đòn bẩy đối với các hoạt động của nền kinh tế nói chung, ngành du lịch nói riêng.

1.3.3 Dân cư, nguồn lao động ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

Dân cư là nhân tố quan trọng trong hoạt động du lịch ở cả hai khía cạnh: vừa là lực lượng sản xuất vừa là lực lượng tiêu thụ gắn với nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch. Dân số càng đông, lực lượng tham gia vào các ngành sản xuất và dịch vụ ngày càng nhiều thì du lịch càng có điều kiện phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí.

Các đặc điểm của dân cư như nhân khẩu, cấu trúc, mật độ, thành phần dân tộc cùng với kết cấu dân số theo nghề nghiệp, lứa tuổi, sự gia tăng dân số, sự phát triển đô thị hóa và tỉ lệ dân cư đô thị … đều có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của ngành du lịch.

1.3.4 Trình độ phát triển kinh tế – xã hội

Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện các nhu cầu du lịch. Các nhu cầu này thường nảy sinh trực tiếp từ sản xuất. Và khi nhu cầu du lịch xuất hiện thì các hoạt động du lịch đáp ứng các nhu cầu đó cũng xuất hiện theo. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, thu nhập của người lao động ngày càng cao thì nhu cầu của con người càng lớn, yêu cầu về chất lượng cũng càng lớn và ngược lại. Điều này thể hiện càng rõ nếu so sánh giữa những nước chậm phát triển và các nước phát triển cao trên thế giới. Ở các nước phát triển, thu nhập của người dân rất cao do đó nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch của họ rất đa dạng như nghỉ cuối tuần, nghỉ lễ, nghỉ hè, nghỉ đông trong và ngoài nước. Còn ở các nước đang phát triển do mức sống còn thấp nên nhìn chung nhu cầu và các điều kiện đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch còn khá hạn chế.

1.3.5 Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch

Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch là nhu cầu của con người về khôi phục sức khỏe, khả năng lao động, thể chất và tinh thần đã bị hao phí trong quá trình sinh sống và làm việc. Nhu cầu này luôn có sự thay đổi theo thời gian và không gian. Điều đó đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến phát triển của ngành du lịch.

Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch được thể hiện ở các mức độ: xã hội, nhóm người và cá nhân.

  • Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch của xã hội là mức độ quan trọng nhất. Đó là nhu cầu của xã hội về phục hồi sức khỏe và khả năng lao động, về sự phát triển toàn diện thể chất và tinh thần cho mỗi thành viên trong xã hội. Nhu cầu này quyết định cấu trúc của ngành du lịch và được phản ánh qua các hình thức tổ chức lãnh thổ của nó.
  • Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch theo nhóm người thể hiện nhu cầu của một nhóm dân cư theo nghề nghiệp, lứa tuổi.
  • Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch cá nhân nhằm góp phần tăng cường sức khỏe, mở rộng hiểu biết, nâng cao năng lực lao động cho bản thân.

1.3.6 Xu thế hội nhập khu vực, quốc tế

Xu thế hội nhập khu vực và quốc tế là một quá trình tất yếu. Xu thế này giúp các nước xích lại gần nhau hơn, hợp tác với nhau cùng phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Một trong những lĩnh vực hợp tác quan trọng hàng đầu hiện nay đó là kinh tế, trong đó hợp tác phát triển du lịch là một trong những hoạt động đang được thúc đẩy mạnh mẽ.

Bức tranh hoạt động du lịch toàn cầu thời gian qua đã và đang phổ biến nên du lịch quốc tế liên tục tăng trưởng; du lịch nội địa chiếm tỷ trọng lớn; du lịch khoảng cách xa có xu hướng tăng nhanh. Du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh và lớn nhất toàn cầu, góp phần vào sự phát triển và thịnh vượng của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

1.3.7 Các nhân tố khác

  • Mức sống

Mức thu nhập, điều kiện sinh hoạt, chế độ dinh dưỡng, điều kiện chăm sóc sức khỏe, học tập, điều kiện tham gia các hoạt động văn hóa – xã hội … nói lên mức sống của con người. Đây là nhân tố vô cùng quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới phát triển du lịch.

Mức sống cao của con người (đặc biệt được thể hiện ở mức thu nhập thực tế cao) sẽ là yếu tố thúc đẩy cho du lịch phát triển. Thường ở những nước phát triển, hoặc ở các trung tâm kinh tế lớn của các quốc gia, dân cư luôn có mức thu nhập trung bình cao thì hoạt động du lịch luôn phát triển mạnh mẽ, tỉ lệ đóng góp vào GDP luôn ở mức cao. Còn ở các nước kém phát triển thì ngược lại, tỉ lệ đóng góp của du lịch vào GDP thậm chí không đáng kể.

  • Thời gian rỗi

Thời gian rỗi là phần thời gian ngoài giờ làm việc. Trong thời gian này thường diễn ra các hoạt động nhằm phục hồi và phát triển thể lực, tinh thần của con người. Con người chỉ có thể đi du lịch vào thời gian rỗi. Do đó, đây là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các hoạt động du lịch. Nếu thời gian rỗi của người dân trong năm ngắn thì số lần đi du lịch trong năm sẽ ít và ngược lại.

Người lao động càng có nhiều thời gian rỗi, ngành du lịch càng có nhiều điều kiện thuận lợi để quảng bá, hướng mọi người sử dụng thời gian rỗi với mục đích nâng cao vốn hiểu biết, tăng cường sức khỏe … bằng con đường du lịch.

Như vậy, khi có thêm nhiều thời gian rỗi thì mọi người sẽ có thêm nhiều lựa chọn thích hợp cho mình, trong đó du lịch là lựa chọn hàng đầu.

  • Chính trị

Du lịch chỉ có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc, các quốc gia. Ở những nước, những vùng lãnh thổ có chiến tranh hoặc an ninh chính trị bất ổn, quyền lợi và tính mạng của người đi du lịch không được đảm bảo, các công trình du lịch bị phá hoại … thì hoạt động du lịch sẽ bị hạn chế.

Hòa bình và ổn định chính trị với các hoạt động du lịch luôn có mối quan hệ khá mật thiết với nhau. Hòa bình là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển. Còn các hoạt động du lịch thì có tác dụng góp phần gìn giữ hòa bình. Thông qua du lịch, nhất là du lịch quốc tế, mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia, các dân tộc trên thế giới sẽ ngày càng được củng cố, thắt chặt hơn.

1.4 Các hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch cho cấp tỉnh ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

Tổ chức lãnh thổ du lịch được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch và các cơ sở phục vụ có liên quan dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên du lịch, kết cấu hạ tầng và các nhân tố khác nhằm đạt hiệu quả cao nhất về mọi mặt.

Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu của đề tài là ở quy mô cấp tỉnh nên đề tài chỉ xét đến một số hình thức thổ chức lãnh thổ dưới đây:

1.4.1 Điểm du lịch

“Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch”.

Điểm du lịch là cấp thấp nhất của hệ thống phân vị trong phân vùng du lịch. Những điểm du lịch được công nhận là điểm du lịch quốc gia phải đảm bảo các điều kiện: có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn và khả năng bảo đảm phục vụ tối thiểu một trăm nghìn lượt khách du lịch một năm ; có đường giao thông thuận tiện đến điểm du lịch ; các dịch vụ: bãi đỗ xe, có khu vệ sinh công cộng, phòng cháy chữa cháy, cấp, thoát nước, thông tin liên lạc và các dịch vụ khác đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch; đáp ứng các điều kiện về bảo đảm an ninh, an toàn, trật tự, vệ sinh môi trường theo quy định của pháp luật.

Các điểm du lịch nối với nhau bằng tuyến du lịch. Trong từng trường hợp cụ thể các tuyến du lịch có thể là tuyến nội vùng (á vùng, tiểu vùng, trung tâm) hoặc là tuyến liên vùng.

1.4.2 Khu du lịch

“Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường”.

Khu du lịch quốc gia, là nơi có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên, có khả năng thu hút nhiều khách du lịch; diện tích tối thiểu là một nghìn héc ta và có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất một triệu lượt khách du lịch một năm; có mặt bằng, không gian đáp ứng yêu cầu của các hoạt động tham quan, nghỉ ngơi, giải trí trong khu du lịch; Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch và dịch vụ đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; có cơ sở lưu trú du lịch, khu vui chơi giải trí, thể thao và các cơ sở dịch vụ đồng bộ khác.

1.4.3 Tuyến du lịch ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

“Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không”.

Tùy vào điều kiện và khả năng đáp ứng các nhu cầu của du khách mà tuyến du lịch có thể được công nhận là tuyến du lịch quốc gia hay địa phương.

Tuyến du lịch quốc gia là những tuyến nối các khu du lịch, điểm du lịch, trong đó có khu du lịch, điểm du lịch quốc gia, có tính chất liên vùng, liên tỉnh, kết nối với các cửa khẩu quốc tế; có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo tuyến.

Còn tuyến du lịch địa phương là tuyến nối các khu du lịch, điểm du lịch trong phạm vi địa phương; có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo tuyến.

1.5 Cơ sở thực tiễn

  • Tiềm năng

Việt Nam là một quốc gia có rất nhiều tiềm năng để phát tr iển một ngành du lịch đa dạng và phong phú với hàng chục ngàn di tích, thắng cảnh. Trong đó có 8 di sản được UNESCO công nhận là Di sản thế giới tại Việt Nam, hơn 3000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 5000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh.

Tính đến hết năm 2010, Việt Nam có 8 khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, đó là Châu thổ sông Hồng, Cát Bà, Tây Nghệ An, Đồng Nai, Cù lao Chàm, Cần Giờ, Cà Mau và biển Kiên Giang.

Việt Nam còn có rất nhiều vườn quốc gia như Ba Bể, Cúc Phương, Phong Nha – Kẻ Bàng, Côn Đảo, Mũi Cà Mau, Phú Quốc, Phước Bình, Tràm Chim, U Minh Hạ, U Minh Thượng …

Việt Nam có hàng trăm nguồn nước nóng từ 40 – 100 độ. Nhiều suối có hạ tầng xây dựng khá tốt như: Suối nước nóng thiên nhiên Đam Rông, Lâm Đồng; suối nước nóng Kim Bôi, Hòa Bình, suối nước nóng Bình Châu, Bà Rịa-Vũng Tàu, suối nước nóng Kênh Gà, Ninh Bình, suối nước nóng Quang Hanh, Quảng Ninh.

Việt Nam đứng thứ 27 trong số 156 quốc gia có biển trên thế giới với 125 bãi tắm biển, hầu hết là các bãi tắm đẹp. Việt Nam là 1/12 quốc gia có vịnh đẹp nhất thế giới là vịnh Hạ Long và vịnh Nha Trang . Việt Nam là một nước đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng về văn hoá, phong tục tập quán và lối sống riêng. Điều đó tạo nên sự đa dạng trong việc khai thác phát triển du lịch.

Một số di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới tại Việt Nam đã được UNESCO công nhận như Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ, Ca trù, Hội Gióng, Hát xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ.

Chính những tiềm năng dồi dào và đa dạng đó đã hình thành một nền tảng khá vững chắc để du lịch Việt Nam phát triển và hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.

  • Thực trạng

Trong Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định, du lịch là “ Một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước”, và Đảng ta đặt ra mục tiêu là phải “Phát triển mạnh du lịch, từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực”.

Tổng Cục Du lịch (Việt Nam) chính thức được thành lập ngày 27 tháng 6 năm 1978. Tiền thân của Tổng cục là Công ty Du lịch Việt Nam (ra đời năm 1960). Trải qua nhiều biến cố của lịch sử đất nước, từ khi thành lập đến nay, ngành du lịch Việt Nam đã có nhiều cố gắng, từng bước khẳng định được vị trí, vai trò của một ngành kinh tế tổng hợp. Hiện nay ngành du lịch nước ta đã gặt hái được những thành quả rất đáng tự hào. ( Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình )

Tiểu kết chương 1

Ngày nay du lịch thực sự trở thành một nhu cầu tất yếu trong đời sống xã hội hiện đại. Nó là một trong những nhân tố quan trọng góp phần phục hồi và tái tạo sức sản xuất của con người. Ngành du lịch ra đời, phát triển và ngày càng khẳng định vị trí và vai trò cực kì to lớn của mình trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch nói chung và thực trạng phát triển du lịch của một vùng lãnh thổ hay một địa phương nói riêng sẽ mang nhiều ý nghĩa và có giá trị thực tiễn cao, góp phần thúc đẩy cho ngành du lịch ngày một phát triển theo hướng bền vững hơn.

Trong Chương 1, cơ sở lý luận về phát triển du lịch đã được trình bày một cách cơ bản. Cụ thể:

Chương 1 đã nêu rõ được các khái niệm về du lịch, khách du lịch, sản phẩm du lịch, tài nguyên du lịch; trình bày được vai trò, chức năng của du lịch cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển du lịch; đồng thời trình bày được các hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch cho cấp tỉnh.

Bên cạnh đó, Chương 1 cũng đã trình bày được cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch như: tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch của Việt Nam

Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch ở trên là cơ sở quan trọng cho việc phân tích tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình sẽ được trình bày ở Chương 2.

Mời bạn tham khảo thêm:

Khóa luận: Thực trạng khai thác tiềm năng du lịch Ninh Bình

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Khóa luận tốt nghiệp Tiềm năng khai thác điểm du lịch tại Ninh Bình […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993