Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

Rate this post

Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm thể hiện chính xác chính sách phát triển kinh tế Việt Nam hoà với xu thế phát triển chung là mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Là một lĩnh vực quan trọng được các nước ưu tiên trong quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như một thước đo, cầu nối quan trọng đều được triển khai ngay tại Đề tài: Phân tích đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK của Việt Nam, dưới đây!

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Chính sách phát triển kinh tế Việt Nam hoà với xu thế phát triển chung là mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Hoạt động này đặc biệt có tiền đề phát triển mạnh mẽ khi xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá và tự do thương mại trở thành một nhu cầu tất yếu của đời sống thương mại toàn cầu với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ. Sau đại hội VI của Đảng, nhờ sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy kinh tế, giải phóng sức lao động, phương thức quản lý kinh tế…tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XNK phát triển và tăng trưởng hơn bao giờ hết. Sự tăng trưởng kinh tế và thương mại với tốc độ cao, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện là một minh chứng cho chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.

Tuy nhiên, hoạt động XNK không chỉ mang lại những lợi ích kinh tế mà còn làm phát sinh nguy cơ gây rủi ro, gây tổn thất, làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới kết quả kinh doanh của DN, của ngành nghề, ảnh hưởng đến bộ phận lao động hoặc nền kinh tế. Với sự hình thành của mạng thông tin toàn cầu và sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học – kỹ thuật, hoạt động kinh doanh XNK trở lên đa dạng hơn, hiệu quả hơn và phát sinh rủi ro cũng nhiều hơn, phức tạp hơn nhất là khi nảy sinh mâu thuẫn lợi ích chính trị và kinh tế giữa các quốc gia, các khu vực, các khối liên kết kinh tế.

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động này cần phải có biện pháp hạn chế những rủi ro mà VN đã gặp phải trong thời gian qua, chúng ta cần nghiên cứu rủi ro XNK một cách tổng quát nhất cả về mặt vi mô và vĩ mô nhằm đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế, giảm bớt nguy cơ, giảm nhẹ rủi ro, tổn thất góp phần giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh và tạo lập môi trường kinh doanh an toàn là một điều cần thiết. Với cách nhìn như vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Rủi ro – giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam” làm đề tài luận văn nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh XNK.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:

Trong thời gian qua, có nhiều đã có nhiều sách, báo, bài viết về rủi ro trong kinh doanh, mỗi bài viết nghiên cứu rủi ro ở một góc độ khác nhau. Đối với rủi ro trong hoạt động XNK chỉ có những bài nghiên cứu riêng về một khía cạnh vấn đề, hay một phương thức, một loại rủi ro nào đó mà chưa có một nghiên cứu đánh giá về các nhân tố tác động vĩ mô gây rủi ro trong hoạt động XNK.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Phân tích đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK của Việt Nam, đề xuất các giải pháp để hạn chế những rủi ro từ đó cải thiện, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động XNK.

4. Đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu lý luận liên quan tới XNK và rủi ro trong kinh doanh XNK. Nghiên cứu những rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK của Việt

Nam trong những năm đổi mới, từ đó làm cơ sở giải quyết từng vấn đề trong luận văn.

5. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các biện pháp nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin để luận giải các vấn đề liên quan, bên cạnh đó luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh…

6. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương

  • Chương 1: Lý luận chung về rủi ro – rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
  • Chương 2: Thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK Việt Nam.
  • Chương 3: Giải pháp ngăn ngừa – hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn PGS. TS Nguyễn Như Tiến, các thầy cô giáo, các bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO – RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK

1.1. KHÁI NIỆM VỀ RỦI RO ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

1.1.1. KHÁI NIỆM RỦI RO

Trong kinh doanh, bản thân mỗi doanh nghiệp phải đưa ra các quyết định quản lý, trong mỗi quyết định đó đã bao hàm sự rủi ro. Những rủi ro này có thể xuất phát ngay từ chính bản thân của mỗi doanh nghiệp, bản thân chính sách của một nước, nước đối tác và cũng có thể xuất phát từ những yếu tố khách quan, tồn tại độc lập, khách quan ngoài ý muốn của doanh nghiệp.

Hoạt động kinh doanh trong xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự bùng nổ và hỗ trợ đắc lực của cuộc cách mạng tin học, các phương tiện thông tin hiện đại, vô số các cơ hội kinh doanh đang mở ra đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK của Việt Nam, tuy nhiên cần phải nhận thức rằng cơ hội mở ra càng nhiều thì rủi ro càng lớn, cùng với sự phát triển mạnh mẽ các loại hình kinh doanh quốc tế, tính chất của các loại rủi ro càng đa dạng và phức tạp. Vậy rủi ro là gì?

Có rất nhiều khái niệm về rủi ro, theo Frank Knight, một nhà kinh tế học người Mỹ: “ Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”. Theo nhà kinh tế học Allan Wilett: “ Rủi ro là bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi”. Đối với Marilee Hurt Me Carty, một nhà nghiên cứu thuộc Viện khoa học kỹ thuật Georgea: “Rủi ro là một tình trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được”. Khái niệm trên đề cập đặc điểm cơ bản của rủi ro đó là tính ngẫu nhiên của rủi ro song chưa nêu được tác động, hậu quả của rủi ro.

Theo nhà kinh tế học Irving Pfeffer “ Rủi ro là một tổng hợp sự ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất” hay “ rủi ro là những biến động tiềm ẩn ở kết quả, là giá trị hay kết quả hiện thời chưa biết đến”. “Rủi ro là những tai nạn sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, gây thiệt hại về người và tài sản “.

Theo khái niệm rủi ro trong bảo hiểm thì “ Rủi ro là những tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, hoặc những mối de doạ nguy hiểm khi xảy ra thì gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm”.

Hai khái niệm về rủi ro này đề cập cụ thể hơn về rủi ro và hậu quả của nó đồng thời đề cập đến thiệt hại vật chất có thể đo lường được, có thể làm phương hại tới mọi hoạt động của con người.

Trong hoạt động cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động kinh tế luôn hàm chứa rủi ro. Từ những quan niệm nêu trên, ta có thể nêu khái niệm rủi ro như sau [1]:

Rủi ro là những tai hoạ, tai nạn, sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra, gây thiệt hại về người và tài sản trong cuộc sống hàng ngày và trong hoạt động kinh tế của con người.

Khi đề cập đến rủi ro, chúng ta thường đề cập tới những yếu tố tiêu cực, phiến diện gây ảnh hưởng, hậu quả đối với con người. Do đó, nghiên cứu rủi ro và đề ra các biện pháp hạn chế là hoạt động cần thiết.

1.1.2. KHÁI NIỆM RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Kinh doanh XNK là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro và mạo hiểm do đặc thù của hoạt động này bởi sự xa cách về mặt địa lý, sự khác biệt về môi trường kinh doanh, chính trị và văn hoá…

Qua xem xét một số quan niệm về rủi ro cũng như xuất phát từ thực tế khách quan trong hoạt động xuất nhập khẩu, rủi ro XNK có thể được hiểu như sau:

Rủi ro xuất nhập khẩu là những biến cố không mong đợi, có thể xảy ra trong quá trình xuất nhập khẩu, làm giảm hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.

1.1.3. ĐẶC ĐIỂM

 Từ những khái niệm nêu trên, ta thấy rủi ro nói chung và rủi ro xuất nhập khẩu nói riêng đều có những đặc điểm sau:

  • Rủi ro tồn tại khách

Rủi ro tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, nó tồn tại độc lập với ý chí của doanh nghiệp và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Con người chỉ có thể nhận biết loại rủi rỏ này bằng tư duy, kinh nghiệm.

  • Rủi ro có tính bất định.

Rủi ro xuất nhập khẩu mang tính bất định, người ta chỉ có thể lường trước được rủi ro nhưng không thể đánh giá một cách chính xác về mức độ của rủi ro và khi nào rủi ro xảy ra. Do vậy, rủi ro là một sự không chắc chắn về những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai.

  • Rủi ro có tính khả năng.

Khi nói đến rủi ro, người ta phải đề cập đến tính khả năng của rủi ro nghĩa là nó có thể trở thành hiện thực hoặc không, khả năng rủi ro có thể biến thành thế này hay thế khác, chỉ có thể dự đoán nó xảy ra hay không trong giới hạn thời gian và không gian, nó có khả năng xảy ra nhưng cũng có thể không xảy ra. Nếu rủi ro không có tính khả năng thì bảo hiểm không ra đời và không ai phải lo sợ trước rủi ro.

  • Rủi ro có tính tương ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Rủi ro có tính tương lai vì khi bàn đến rủi ro nghĩa là nó chưa xảy ra, con người chỉ dự đoán, đo lường trước trong tương lai, ở thời điểm ta dự báo rủi ro chưa xảy ra. Căn cứ vào tính khả năng và tính tương lai của rủi ro, người ta có thể “kinh doanh rủi ro”- bảo hiểm.

  • Rủi ro có tính lịch sử.

Rủi ro mang tính lịch sử, ứng với mỗi giai đoạn nhất định, mỗi chủ thể doanh nghiệp cụ thể, rủi ro mang tính riêng biệt. Hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, với sự tham gia của nhiều nền kinh tế khác nhau trên thế giới. Do đó, rủi ro xuất nhập khẩu mang tính lịch sử. Đặc trưng của những rủi ro này luôn thay đổi, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, ví dụ như khi nền khoa học kỹ thuật, công nghệ càng phát triển, kỹ thuật đóng tầu hiện đại hơn với những con tàu an toàn hơn, khắc phục nhiều hơn yếu tố rủi ro thiên tai đối với vận tải biển, song đồng thời cũng mở ra nhiều hình thức thương mại mới, thanh toán mới và nảy sinh những loại rủi ro mới.

Ngoài những đặc điểm chung nói trên, rủi ro trong hoạt động XNK so với rủi ro kinh doanh nói chung có một số điểm chú ý sau:

Một là vì hoạt động XNK vượt ra ngoài biên giới quốc gia nên các doanh nghiệp chịu nhiều nguy cơ rủi ro cả trong và ngoài nước, gồm nhiều nhân tố khách quan và chủ quan vì vậy rủi ro XNK có tần xuất lớn hơn.

Hai là rủi ro trong hoạt động XNK gắn liền, trực tiếp với sự biến động của các nhân tố toàn cầu như khủng hoảng, suy thoái kinh tế khu vực và thế giới, phạm vi mức độ cạnh tranh quốc tế.

Ba là kinh doanh XNK là hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố như chủ thể kinh doanh, ngôn ngữ, luật áp dụng, tập quán thương mại, sự dịch chuyển hàng hoá, chứng từ, tiền tệ thanh toán quốc tế…Do vậy, các loại rủi ro xảy ra trong hoạt động này rất đa dạng và phức tạp.

1.1.4. PHÂN LOẠI ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Rủi ro trên thực tế tồn tại rất đa dạng. ở mỗi lĩnh vực khác nhau, ngoài những rủi ro do tác động chung còn gặp phải những rủi ro riêng. Trong hoạt động kinh doanh cũng như trong đời sống kinh tế xã hội, việc phân loại rủi ro là hết sức cần thiết để hiểu và nắm bắt được nó, từ đó tìm kiếm giải pháp nhằm tránh, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của rủi ro. Rủi ro được phân biệt theo nhiều loại tuỳ theo các tiêu thức khác nhau:

1.1.4.1. CĂN CỨ VÀO TÍNH CHẤT CỦA RỦI RO

Theo căn cứ này rủi ro nói chung được chia làm 2 loại. Đó là rủi ro thuần tuý và rủi ro suy đoán.

Rủi ro thuần tuý là những rủi ro mang lại những thiệt hại, mất mát mà không ai có khả năng được lợi.

Rủi ro suy đoán là rủi ro mang tính may rủi, nghĩa là nó vừa có khả năng dẫn đến tổn thất vừa có khả năng sinh lời.

Có thể nói, rủi ro thuần tuý chỉ có viễn cảnh là tổn thất hoặc không còn rủi ro suy đoán viễn cảnh hứa hẹn việc kinh doanh sẽ sinh lời hoặc thua lỗ.

1.1.4.2. CĂN CỨ VÀO PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA RỦI RO

Theo căn cứ này ta có thể chia rủi ro làm hai nhóm là rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt:

  • Rủi ro cơ bản là rủi ro có ảnh hưởng đến toàn bộ nhóm người nào đó trong xã hội. Phần lớn rủi ro này xuất phát từ sự tác động tương hỗ về kinh tế, chính trị, xã hội mặc dù có thể xuất phát từ những nguyên nhân thuần tuý có tính vật chất như thất nghiệp, lạm phát.
  • Rủi ro riêng biệt là rủi ro mà hậu quả của nó chỉ ảnh hưởng đến một số cá nhân, tổ chức mà không ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội. Ví dụ như đắm tàu, cướp ngân hàng, hay cháy một nhà máy…

Tuy nhiên, cách phân loại trên chỉ mang tính tương đối, tuỳ thuộc vào quan niệm của cộng đồng, xã hội ở mỗi hoàn cảnh lịch sử khác nhau, rủi ro riêng biệt có thể chuyển thành rủi ro cơ bản và ngược lại.

1.1.4.3. CĂN CỨ VÀO KHẢ NĂNG BẢO HIỂM ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

 Theo căn cứ này, rủi ro được chia làm hai loại. Đó là rủi ro có thể bảo hiểm và rủi ro không thể bảo hiểm.

  • Rủi ro có thể bảo hiểm:

Cách phân loại rủi ro có thể bảo hiểm đứng trên góc độ người kinh doanh dựa vào đặc điểm “tính khả năng và tính tương lai của rủi ro”. Khi xem xét rủi ro có thể bảo hiểm hay không người bảo hiểm phải xác định rủi ro dựa trên hai cơ sở sau:

Một là chỉ bảo hiểm cho rủi ro hoàn toàn ngẫu nhiên, rủi ro cố ý gây ra phải bị loại trừ.

Hai là rủi ro có thể lượng hoá, tức là hậu quả của rủi ro đó quy thành tổn thất vật chất.

Rủi ro không thể bảo hiểm: là những rủi ro không đáp ứng hai tiêu chí trên.

1.1.4.4. CĂN CỨ VÀO NGUYÊN NHÂN SINH RA RỦI RO

Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, ta có thể chia rủi ro làm các loại sau:

  • Rủi ro do thiên tai, thiên tai là những hiện tượng tự nhiên mà con người không chi phối được như: biển động, gió lốc, sét đánh, thời tiết xấu, sóng thần, núi lửa, tai hoạ biển…
  • Rủi ro do các tai nạn bất ngờ là những thiệt hại không phải do thiên tai gây ra mà do tác động ngẫu nhiên bên ngoài gây ra trên biển, trên không, trên bộ, trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ, giao nhận, lưu kho, bảo hiểm, ký kết thực hiện hợp đồng…
  • Rủi ro do sự biến động của chu kỳ kinh tế, do các hiện tượng chính trị xã hội gây nên… như rủi ro chiến tranh, đình công, nổi loạn và các hành động khủng bố.
  • Rủi ro do hành động riêng lẻ của con người gây nên như đào bới lòng đất gây biến động địa chấn, chặt phá rừng, gây ô nhiễm môi trường sống, trộm cắp, cướp phá, sơ xuất trong nghiệp vụ tác nghiệp… ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

1.1.4.5. CĂN CỨ VÀO MÔI TRƯỜNG

Nhóm rủi ro này do các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên, môi trường kinh doanh quốc tế, môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường tác nghiệp gây ra. Sự thiếu ổn định các yếu tố này có thể dẫn đến rủi ro cho các doanh nghiệp. Bởi không giống như các doanh nghiệp chỉ kinh doanh trong nước, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoạt động trên phạm vi rộng, đa quốc gia, các nước có điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, luật pháp, chính trị khác nhau…Do vậy, những rủi ro phát sinh từ môi trường bên ngoài ngày càng lớn.

  • Rủi ro điều kiện tự nhiên

Là rủi ro do thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh…tác động xấu đến quá trình sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Những hậu quả này thường rất nghiêm trọng và có ảnh hưởng lớn tới doanh nghiệp, nhất là đối với một nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể phòng ngừa và hạn chế được những rủi ro này.

  • Rủi ro về chính trị, pháp luật

Là rủi ro do chính sách mà chính phủ áp dụng nhằm điều tiết hoạt động kinh doanh XNK làm hạn chế, ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Cụ thể hơn đó có thể là khả năng mà các cơ quan chức năng của chính phủ có thể tạo nên sự thay đổi, xáo trộn môi trường kinh doanh của quốc gia tác động đến lợi nhuận và những mục tiêu khác của doanh nghiệp. Đây là rủi ro mà các nhà xuất khẩu cần phải chú ý vì trước khi xây dựng chiến lược xuất khẩu hay quyết định ký kết một hợp đồng kinh tế, các doanh nghiệp xuất khẩu phải dựa vào tình hình kinh tế xã hội, dựa trên văn bản quy phạm pháp luật của đối tác. Biến động về chính trị, pháp luật xảy ra sẽ làm đảo lộn mọi dự đoán của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh XNK, rủi ro chính trị, pháp lý là loại rủi ro khó lường. Một số loại rủi ro chính trị như:

  • Chính sách quản lý ngoại hối, thuế, hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thương mại khác thay đổi làm thay đổi khoản thu nhập cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
  • Chính sách tuyển dụng lao động: sự thay đổi những quy định về quản lý và tuyển dụng lao động, ví dụ như thay đổi tiền lương tối thiểu, lao động nữ hoặc hạn chế lao động nước ngoài.
  • Lãi suất: Chính phủ có thể đưa ra nhiều biện pháp sử dụng lãi suất để quản lý và kiểm soát lạm phát. Vấn đề có thể nảy sinh theo thời gian tác động đến tiền tệ của quốc ..
  • Giấy phép độc quyền, chính sách tài trợ hoặc bảo trợ một ngành nào đó, quyền phát triển hoặc khai thác nguồn tài nguyên hay cơ hội kinh
  • Môi trường, sức khoẻ và an toàn, những quy định liên quan đến kiểm soát chất thải, quy định về bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.

1.1.4.6. CĂN CỨ VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Rủi ro trong quá trình chuẩn bị nguồn hàng xuất khẩu, chuẩn bị hàng xuất khẩu qua nhiều công đoạn, các sản phẩm hàng hoá thường qua giai đoạn sản xuất, chế biến hoặc gom hàng từ nhiều nguồn. Do đó, quá trình này thường ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường tự nhiên, hoặc các yếu tố đầu vào không ổn định và biến động tuỳ thuộc vào mỗi loại hình và quy mô hoạt động của doanh nghiệp.

  • Rủi ro trong đàm phán 

Các phương tiện đàm phán chủ yếu trong thương mại quốc tế thường là: đàm phán bằng thư tín, đàm phán qua điện thoại hoặc đàm phán giao dịch trực tiếp. Tuỳ thuộc vào hình thức đàm phán các doanh nghiệp có thể gặp những rủi ro khác nhau:

Hình thức giao dịch gián tiếp (đàm phán qua thư từ): Rủi ro có thể xảy ra khi ta chuẩn bị kém về hình thức và nội dung hoặc sự nhầm lẫn về ngôn từ làm đối tác hiểu nhầm, hiểu sai nội dung mà ta hoặc đối tác muốn chuyển tải.

Giao dịch qua điện thoại: Rủi ro có thể xảy ra nếu không thông thạo ngôn ngữ quy ước hai bên dùng để giao dịch, thường không dùng tiếng Việt. Do vậy, nếu sử dụng không thông thạo, tinh tế và linh hoạt sẽ dễ bị đối tác hiểu nhầm, từ chối hợp tác…doanh nghiệp có thể mất đi những hợp đồng có giá trị.

Hình thức giao dịch trực tiếp: Rủi ro có thể xảy ra nếu trước khi gặp gỡ đối tác, doanh nghiệp không có sự chuẩn bị những tài liệu liên quan hoặc không hiểu biết cặn kẽ về đối tác, không đủ kỹ năng và nghệ thuật đàm phán.

  • Rủi ro khi soạn thảo hợp đồng ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Quá trình soạn thảo hợp đồng là khâu quan trọng, thực hiện tốt khâu này sẽ giúp doanh nghiệp có thể phòng ngừa và hạn chế nhiều rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng. Rủi ro trong soạn thảo hợp đồng là thiếu dẫn chiếu các văn bản pháp luật, tập quán quốc tế liên quan hoặc thiếu những điều khoản cần thiết về một hợp đồng, nhất là các điều khoản bảo vệ doanh nghiệp mình khi xảy ra tranh chấp thương mại. Đồng thời khi soạn thảo hợp đồng, DN cần chú ý tới thời gian thực hiện hợp đồng tương quan với giá cả của hàng hoá, điều khoản giao – nhận hàng, thanh toán, trọng tài…

  • Rủi ro khi ký kết hợp đồng 

Nếu các doanh nghiệp trước khi ký kết không kiểm tra lại các điều khoản của hợp đồng, không đối chiếu các điều khoản ghi trong hợp đồng với sự thoả thuận qua hình thức khác trước đó đã đạt được có thể gây ra những rủi ro và tổn thất không đáng có cho doanh nghiệp.

  • Rủi ro trong quá trình vận chuyển 

Do hành trình hàng hoá từ tay người bán đến tay người mua thường xa nhau, thời gian vận chuyển lâu, đa phần hàng hoá hữu hình thường vận chuyển bằng đường biển, nhưng dù được vận chuyển bằng phương tiện khác thì cũng khó tránh khỏi các trường hợp tự nhiên bất khả kháng. Tuy nhiên, theo từng loại hợp đồng với mỗi điều kiện cơ sở giao hàng khác nhau thì mức độ rủi ro và thiệt hại cũng khác nhau. ICC đã ban hành “Các điều kiện thương mại quốc tế” để các bên lựa chọn. Người nhập khẩu thường chọn những điều kiện với chi phí nhập hàng càng thấp càng tốt, đối với người xuất khẩu thì ngược lại vì vậy họ ít khi coi trọng đến hậu quả rủi ro có thể xảy ra.

  • Rủi ro trong quá trình giao nhận 

Rủi ro trong quá trình này thường xảy ra đối với doanh nghiệp do một số nguyên nhân chính sau:

Thiếu thông tin về hãng tầu, lịch trình, địa điểm, chi nhánh, chuyển tải, không chủ động trong việc chuẩn bị giao hoặc nhận hàng.

Không nắm vững các khái niệm về thời gian xếp dỡ, thời gian tàu đến cảng xếp, dỡ hàng, do đó không chủ động giao nhận…

Không nắm vững các kỹ thuật bố trí giao nhận hàng trên phương tiện vận tải để đảm bảo số lượng và chất lượng được giao, không sử dụng điều kiện dung sai.

Chưa thông thạo các thủ tục hải quan, không chuẩn bị đầy đủ chứng từ cần thiết để tiến hành kiểm hoá, thông quan.

Không thông báo đã giao hàng cho bạn hàng biết theo quy định của hợp đồng. ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Không chủ động trong việc thuê tàu, nên các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp rủi ro trong quá trình giao nhận vì các doanh nghiệp Việt Nam thường mua CIF, bán FOB.

Rủi ro trong quá trình giao nhận ảnh hưởng lớn tới việc thực hiện hoàn chỉnh một hợp đồng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Bởi giao nhận là một trong những điều kiện để giúp doanh nghiệp có những chứng từ cần thiết để thanh toán tiền hàng, trong đó vận tải đơn là một chứng từ chứng minh việc giao hàng của doanh nghiệp.

  • Rủi ro trong quá trình mua bảo hiểm 

Phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đều xuất khẩu hàng hoá với giá FOB, thực tế rất ít doanh nghiệp gặp rủi ro trong quá trình này. Rủi ro trong quá trình mua bảo hiểm thường xảy ra khi:

Chứng từ tín dụng được xuất trình không đúng như yêu cầu của tín dụng thư, ví dụ như trong L/C yêu cầu xuất trình đơn bảo hiểm nhưng lại xuất trình giấy chứng nhận bảo hiểm.

Các rủi ro bảo hiểm không phải là loại quy ước trong tín dụng thư.

Đồng tiền bảo hiểm không đúng với quy định trong tín dụng thư (trừ trường hợp có điều khoản liên quan quy định trong tín dụng thư).

Số tiền bảo hiểm thấp hơn yêu cầu trong tín dụng thư.

Hiệu lực hợp đồng bảo hiểm không bắt đầu vào đúng ngày trên chứng từ vận tải hoặc trước ngày ghi trên chứng từ vận tải.

Không đánh giá đúng mức độ của rủi ro đối với hàng hoá dẫn đến việc mua bán không đúng loại bảo hiểm cần thiết.

  • Rủi ro trong thanh toán 

Rủi ro trong thanh toán là những mất mát thiệt hại xảy ra do không thu hồi được vốn một cách đầy đủ và đúng hạn hoặc phải chịu các chi phí phát sinh không đáng có.

Ngày nay, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, sự phát triển của hệ thống ngân hàng với sự hỗ trợ tích cực của các thành tựu khoa học kỹ thuật và cách mạng tin học, các phương tiện thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, với mỗi phương thức thanh toán lựa chọn, các doanh nghiệp vẫn có thể gặp những rủi ro.

1.1.4.7. Rủi ro thường gặp trong phương thức nhờ thu ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng, uỷ thác ngân hàng phục vụ thu hộ mình số tiền thanh toán từ người mua trên cơ sở hối phiếu lập ra.

Có hai loại nhờ thu là nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ [9 ]:

Nhờ thu trơn là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người mua không thông qua ngân hàng.

Phương thức nhờ thu trơn rất ít được sử dụng trong thanh toán quốc tế, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người bán, việc nhận hàng của người mua tách rời khâu thanh toán do đó tiềm ẩn rủi ro rất cao đối với người bán. Đó là việc người mua có thể đã nhận hàng nhưng không thanh toán hoặc chậm thanh toán. Đối với người mua, nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ, người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có đúng hợp đồng hay không.

Phương thức nhờ thu kèm chứng từ là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo điều kiện là nếu người mua chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ cho người mua để nhận hàng. Nhờ thu kèm chứng từ có hai loại, một là D/P (Documents Against Payment – thanh toán đổi chứng từ – nhờ thu trả ngay), người mua phải trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới giao bộ chứng từ cho họ. Hai là phương thức D/A ( Documents Against Acceptance – thanh toán đổi chứng từ – nhờ thu trả chậm), thay vì hành động trả tiền bằng hành động chấp nhận trả tiền của người mua. Trường hợp này dùng cho việc bán chịu ngắn ngày của người bán cho người mua.

Các rủi ro thường gặp trong phương thức nhờ thu:

Người mua từ chối không nhận hàng, không nhận chứng từ, không thanh toán.

Khi tranh chấp hoặc có rủi ro xảy ra, người bán không có cơ sở pháp lý để khiếu nại người mua khi người mua từ chối nhận hàng và thanh toán vì ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian khống chế chứng từ.

Người bán gánh chịu chi phí khi hàng chuyển về nước.

  • Rủi ro đối với phương tiện chuyển tiền T/T ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Có hai loại điện chuyển tiền là điện tiền trả trước và điện tiền trả ngay hoặc trả sau.

Điện tiền trả trước là hình thức người nhập khẩu trả tiền trước cho người xuất khẩu rồi sau đó người xuất khẩu mới tiến hành giao hàng. Do vậy, rủi ro gần như không có đối với người xuất khẩu nhưng lại rất mạo hiểm đối với người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể không nhận được hàng, nhận thiếu số lượng hàng, hàng có chất lượng kém )

Điện chuyển tiền trả ngay hoặc trả sau: phương thức này đòi hỏi người xuất khẩu phải giao hàng cho người nhập khẩu trước, sau đó người nhập khẩu mới chuyển tiền để thanh toán. Do vậy, rủi ro đối với các nhà xuất khẩu là rất lớn, thường là các rủi ro như hàng đã được giao nhưng không nhận được tiền thanh toán khi nhà nhập khẩu mất khả năng chi trả hoặc cố tình không thanh toán hoặc thanh toán không đúng thời hạn quy định trong hợp đồng do người nhập khẩu trì hoãn hoặc gặp khó khăn về tài chính. Người nhập khẩu từ chối nhận hàng khi giá cả thị trường đang giảm và vì thế sẽ không thực hiện việc thanh toán.

  • Rủi ro đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ( L/C). 

Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó ngân hàng mở thư tín dụng theo yêu cầu của người mua (người xin mở thư tín dụng) cam kết trả một số tiền nhất định cho người thứ ba (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ ba ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định trong thư tín dụng [9].

Chứng từ là vấn đề cơ bản trong phương thức thanh toán bằng tín dụng. Ngân hàng chỉ liên quan đến chứng từ và không liên quan đến xác nhận hàng hoá được giao, ngân hàng không chịu trách nhiệm xác minh tính chân thực của chứng từ và không chịu trách nhiệm về số lượng và chất lượng hàng được giao.

Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất khẩu cao nhất so với các phương thức thanh toán khác đã đề cập. Tuy nhiên, L/C không phải là phương thức tuyệt đối an toàn cho cả người xuất khẩu và người nhập khẩu:

  • Rủi ro đối với người nhập khẩu 

Ngân hàng tiến hành trả tiền cho người hưởng lợi dựa trên các chứng từ xuất trình mà không dựa vào việc kiểm tra hàng hoá. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về tính xác thực của các chứng từ, không chịu trách nhiệm về số lượng và chất lượng hàng được giao. Do vậy, nếu có sự giả mạo trong việc xuất trình chứng từ giả để nhận được thanh toán thì người mua phải bồi hoàn lại số tiền cho ngân hàng phát hành thư tín dụng đã trả cho người hưởng lợi.

Rủi ro xảy ra trong trường hợp người bán xuất trình các chứng từ phù hợp với quy định của L/C và nhận được thanh toán từ ngân hàng nhưng hàng hoá không được giao đúng hợp đồng, vì ngân hàng không liên quan đến việc kiểm tra hàng hoá.

Khi cần thiết có sự thay đổi về các điều khoản trong hợp đồng, người mua phải sửa đổi các điều khoản trong L/C. Như vậy, thời gian giao hàng có thể bị chậm trễ hơn, không đáp ứng nhu cầu kinh doanh của người mua kịp thời và phải chịu chi phí do sửa đổi L/C.

Trong một số trường hợp, hàng đã giao đến nơi đến nhưng người mua vẫn chưa nhận được chứng từ thanh toán, như vậy họ cũng không nhận hàng được.

  • Rủi ro đối với người xuất khẩu ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Rủi ro do tín dụng giả, không kiểm tra thư tín dụng cẩn thận.

Người mua cố tình mở thư tín dụng khác với nội dung thoả thuận hoặc đưa thêm vào các điều khoản mà chưa thoả thuận trước như quy định thời gian giao hàng quá gấp không thể đáp ứng được.

Các chứng từ quy định phải xuất trình quá khó khăn hoặc không thể thực hiện được.

Quy định số cước vận tải người xuất khẩu không thể chấp nhận được.

Thời hạn hiệu lực L/C quá ngắn không đủ cho người xuất khẩu tập hợp đủ chứng từ để xuất trình.

Loại thư tín dụng không đúng như thoả thuận.

Chứng từ không phù hợp với hợp đồng hoặc tín dụng thư yêu cầu.

Ngân hàng phát hành L/C không thực hiện đúng cam kết của mình trong thanh toán đối với người bán.

1.1.4.8. RỦI RO KHÁC

  • Rủi ro do thiếu vốn 

Đây là rủi ro thường gặp ở các doanh nghiệp Việt Nam. Để tham gia một cách tích cực và có hiệu quả vào thương mại quốc tế, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng do thiếu vốn, doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất tối ưu, không đủ sức cạnh tranh, chiếm giữ thị trường dẫn tới thị phần của doanh nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Việc thiếu vốn còn làm cho quá trình thực hiện các hợp đồng xuất khập khẩu không đảm bảo.

  • Rủi ro do thiếu thông tin 

Trong thời đại bùng nổ của khoa học công nghệ, sự lên ngôi của công nghệ tin học, cách mạng thông tin và mở ra thương mại điện tử đã góp phần không nhỏ vào sự thành công của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp không chủ động thu thập và xử lý cũng như đánh giá và tận dụng thông tin thì sẽ gây khó khăn trong việc ra quyết định kinh doanh và có thể gây ra những tổn thất rất lớn. Rủi ro do thiếu thông tin thường xảy ra dưới các hình thức như sau: ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

  1. Thiếu thông tin về đối tác, dẫn đến bị lừa trong quan hệ kinh
  2. Thiếu thông tin về thị trường, các biến động của thị trường.
  3. Thiếu thông tin về công nghệ sản xuất các sản phẩm trên thị trường thế giới.
  4. Thiếu kiến thức về thị trường mà doanh nghiệp tác nghiệp.
  • Rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ 

Rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ là rủi ro hình thành do những sai sót mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ trong các khâu của hoạt động xuất nhập khẩu.

Phân loại và định dạng rủi ro là bước rất quan trọng để giúp doanh nghiệp lựa chọn đúng các biện pháp phòng tránh, hạn chế rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả hơn trong kinh doanh.

1.2. SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK

Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động XNK nói riêng, rủi ro là nguy cơ thường trực và khách quan, thường xuyên đe doạ làm tổn hại đến hiệu quả kinh doanh.

Mục tiêu của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận song an toàn trong kinh doanh là tiêu thức để họ hướng tới trong mỗi thương vụ. Muốn vậy, doanh nghiệp chỉ có cách là phải tìm hiểu về rủi ro mà mình phải đối mặt và đưa ra hướng giải quyết một cách chủ động nhất.

Để tối đa hoá lợi nhuận, DN phải xem xét tất cả mọi yếu tố từ khâu sản xuất đến khâu lưu thông phân phối hàng hoá. Trong thương mại quốc tế quá trình đó vượt ra ngoài ranh giới một quốc gia. Do vậy, tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới chi phí trong quá trình đó trở nên phức tạp hơn, nguy cơ dự đoán sai nhiều hơn. Mặt khác, hiệu quả của hoạt động kinh doanh không chỉ đơn thuần là so sánh kết quả và chi phí mà còn phải cân nhắc tới mọi vấn đề khác. Như vậy, họ cần phải giảm thiểu được rủi ro cũng như những tác động tiêu cực của nó tới cá nhân, công ty, vì vậy phải định dạng rủi ro đồng thời đưa ra các biện pháp hạn chế, phòng trừ. ( Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu )

Khi rủi ro xảy ra, giải quyết hậu quả của nó đối với các bên ảnh hưởng trong quá trình thương lượng, mua bán không chỉ dừng ở khía cạnh kinh tế mà còn phải tính đến cả khía cạnh pháp lý, trách nhiệm pháp lý gắn liền với sự tồn tại, uy tín của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các biện pháp hạn chế rủi ro là cần thiết để chứng minh chủ thể tránh được trách nhiệm dân sự.

Trong xu thế mở cửa và hội nhập, các doanh nghiệp đều có xu hướng phát triển là vươn ra thị trường khu vực và quốc tế. Nếu quá trình này không gắn liền với nghiên cứu rủi ro trong quá trình đó mà chỉ tiến hành một cách tự phát thì đồng nghĩa với thất bại.

Tóm lại, rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK là một yếu tố tất yếu trong kinh doanh, DN nào cũng phải đối diện với những rủi ro đó. Tuy nhiên, mỗi ngành hàng khác nhau thì rủi ro tập trung ở các khâu sẽ khác nhau. Nắm vững mọi thành tố và những khâu mà khả năng có thể là nguyên nhân gây tổn thất trong hoạt động XNK là cần thiết. Điều này không chỉ góp phần để cá nhân, DN đó hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, mà còn góp phần đẩy mức nhận thức và lý luận của tổng thể các doanh nghiệp, các hiệp hội trong xu thế phát triển kinh tế, mở cửa và hội nhập.

Mời bạn tham khảo thêm:

Luận văn: Thực trạng rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Luận văn: Đánh giá rủi ro hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993