Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN hiện nay nhằm thể hiện tầm quan trọng của bản sắc dân tộc, tôn giáo nước ta hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo và hiện nay đang có sự phục hồi và phát triển khá mạnh. Vì vậy, công tác tôn giáo từ Trung ương đến địa phương đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm, trong đó làm tốt công tác QLNN về tôn giáo là góp phần đưa hoạt động tôn giáo dần đi vào nề nếp, ổn định, tuân thủ pháp luật, qua đó đấu tranh ngăn chặn được âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch đều được triển khai trong bài mẫu Đề tài: Quản lý Nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, hết sức phức tạp và có tác động đến mọi mặt đời sống của xã hội. Tôn giáo còn là một thực thể xã hội, hình thành và phát triển từ cả hàng ngàn năm trước. Từ khi hình thành, tôn giáo đã trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu về tinh thần của đại đa số loài người trên toàn thế giới. Tôn giáo mang những giá trị giáo dục con người về chân, thiện, mỹ và những giá trị đó được thể hiện qua nghi lễ, nghi thức, giáo lý, giáo luật của tôn giáo. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội và đến phong tục, tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới theo cả hai xu hướng tích cực và tiêu cực. Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nhà nước, tất cả các quốc gia đều phải tìm ra các giải pháp để công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đạt hiệu quả.
Ở Việt Nam, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm nâng cao công tác quản lý nhà nước về tôn giáo như: Ban hành Nghị quyết số 24- NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác tôn giáo; Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Những văn bản trên đã thể hiện những bước tiến rất quan trọng trong nhận thức và đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo, thể hiện sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận nhân dân và đáp ứng được yêu cầu trong việc quản lý nhà nước về tôn giáo ngày càng chặt chẽ, có hiệu quả hơn. Đặc biệt, ngày 18/11/2016 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018.
Huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế có 02 tôn giáo chính đó là Phật giáo và Công giáo với tổng số tín đồ khoảng 13.565 người, chiếm tỷ lệ 11,6% dân số toàn huyện. Thời gian qua, nhìn chung tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền cơ bản ổn định, phần lớn chức sắc, tín đồ theo đạo trên địa bàn huyện có mối quan hệ gần gũi với chính quyền địa phương, thực hiện tốt chính sách đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng quê hương, tích cực tham gia vào các phong trào, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đường hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Các ngành, các cấp đã chủ động, tích cực thực hiện chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội và giữ vững an ninh chính trị ở các vùng đồng bào tôn giáo. Tuy có khác nhau về giáo lý, giáo luật, nhưng đại đa số quần chúng tín đồ các tôn giáo đều là nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước, đoàn kết, gắn bó cùng dân tộc. Đồng thời, các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của một số phần tử xấu nhằm mục đích không tốt đã bị nhân dân, tín đồ, chức sắc các tôn giáo phản đối, không thừa nhận. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Tuy nhiên, bên cạnh những hoạt động tôn giáo thuần túy thì vấn đề tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo vẫn gặp không ít khó khăn, tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp do tín đồ cực đoan của nhiều tôn giáo khác nhau thực hiện. Các hoạt động tôn giáo cực đoan khá đa dạng, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số người chưa tuân thủ pháp luật, còn tổ chức truyền đạo trái phép, một số chức sắc chưa cộng tác tích cực và thường xuyên với chính quyền, tình hình xây dựng, lấn chiếm đất đai có xu hướng gia tăng…
Một bộ phận cán bộ nhận thức chưa thật đúng đắn và đầy đủ về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến lĩnh vực tôn giáo. Khi xảy ra những vụ việc, vấn đề liên quan đến tôn giáo thì việc giải quyết hay lúng túng, chậm giải quyết và thường kéo dài thời gian gây ra tâm lý mặc cảm cho tín đồ và chức sắc các tôn giáo. Quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo của chính quyền các cấp nhiều lúc, nhiều nơi còn cứng nhắc, chủ quan.
Để giải quyết những tồn tại, bất cấp nêu trên, phải hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Với ý nghĩa và vai trò sâu sắc đó, tác giả lựa chọn: “Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, hoạt động tôn giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình xã hội. Đồng thời, tôn giáo cũng là chủ đề để các nhà khoa học nghiên cứu. Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề quản lý nhà nước về tôn giáo đã có nhiều công trình nghiên cứu và công bố, tiêu biểu như:
- Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay, NXB Công an nhân dân. Nguyên cứu đã làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; sự ra đời, vận động và phát triển của tôn giáo. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và quan điểm của Đảng CSVN về tôn giáo.
- Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, NXB chính trị Quốc gia. Cuốn sách nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, nghiên cứu đặc điểm và vai trò của tôn giáo Việt Nam trong đời sống hiện nay, đặc biệt là đời sống văn hóa khi đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa. Từ đó, đề cập đến một số vấn đề về chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Bùi Hữu Dược (2014), Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay. Luận án trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam. Đánh giá, phân tích thực trạng kết quả quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay, đồng thời dự báo và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.
Nguyễn Thanh Xuân (2015), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Sách kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Ban Tôn giáo Chính phủ và ngày truyền thống ngành quản lý nhà nước về tôn giáo (1955-2015). Cuốn sách đã giới thiệu về tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam; chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ.
Bên cạnh đó, còn có các tài liệu dùng trong các lớp bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo các cấp. Các tài liệu này tìm hiểu công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo như: tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về tôn giáo; công tác quản lý nhà nước đối với đạo Phật, đạo Công giáo, đạo Tin Lành…
Nguyễn Hồng Hải (2009), QLNN về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công;
Hà Thị Xuyên (2011), Hoàn thiện Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công; Trần Thị Hà (2012), QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Sóc Sơn, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công;
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau cả lý luận và thực tiễn của vấn đề quản lý nhà nước về tôn giáo, đã đề ra những phương hướng, giải pháp cho vấn đề hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu trên chỉ làm nổi bật vấn đề về mặt lý luận, mang tính cụ thể ở các địa phương, vùng miền mà các tác giả tập trung nghiên cứu. Hiện nay, chưa có công trình, luận văn, luận án nghiên cứu về tôn giáo nào làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Vì vậy, hướng đề tài mà tác giả lựa chọn nghiên cứu hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn vấn đề quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ tiếp thu, thừa kế có chọn lọc những thành quả của các công trình nghiên cứu đã công bố và các tài liệu liên quan đến đề tài trong quá trình thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
- Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những ưu điểm và hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền; từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo.
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.
Có thể bạn quan tâm:
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: các nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo theo quy định của pháp luật.
- Về không gian: huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Về thời gian: từ năm 2012 đến nay (Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 để thay thế cho Nghị định số 22/2005/NĐ-CP của Chính phủ).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
- Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong tình hình mới.
- Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng một số phuơng pháp như: Phương pháp tổng hợp; phân tích; chuyên gia; quan sát thực tế và sưu tầm số liệu, tư liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo; vận dụng trong quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Về thực tiễn
- Phân tích thực trạng tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phân tích làm rõ những yếu tố ảnh hưởng và có tác động đến quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo.
Chương 2: Thực trạng tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài luận văn ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
1.1.1. Tín ngưỡng và hoạt động tín ngưỡng
- Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng là niềm tin vào cái thiêng liêng, cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người thoát khỏi khổ đau, có được hạnh phúc và sự bình yên.
Có một định nghĩa khác là: “Tín ngưỡng là không phải là niềm tin nói chung, mà nó là niềm tin đặc biệt. Tín ngưỡng là gốc của tôn giáo. Mọi tín ngưỡng, tôn giáo đều có một cái chung là thế giới bên kia khác với thế giới hiện thực mà con người đang sống” [21].
- Hoạt động tín ngưỡng
Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh thiêng; tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng; các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội (Khoản 2- Điều 2).
1.1.2. Tôn giáo và hoạt động tôn giáo
- Tôn giáo
Tôn giáo theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột cùng, như gắn bó với Chúa, với Thượng đế hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới hữu hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục.
Theo quan điểm Mác-Xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội tôn giáo phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, như: Tâm lý, tình cảm, niềm tin và hệ tư tưởng tôn giáo. Còn với tư cách là một thực thể, hay một hiện tượng xã hội, tôn giáo thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, được quy định bởi hạ tầng cơ sở xã hội. Cụ thể hơn, tôn giáo ra đời từ 3 nguồn gốc: Kinh tế – xã hội, nhận thức và tâm lý. Là một hiện tượng xã hội, kết cấu của tôn giáo bao gồm cả yếu tố vật chất và tinh thần, mà thông thường là các yếu tố: Ý thức, nghi lễ, luật lệ và tổ chức.
C.Mác đã khẳng định rằng: “Con người sáng tạo ra tôn giáo”, “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là sự biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [32]. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Tôn giáo là một tổ chức, đại diện cho một cộng đồng người có chung một đức tin, theo một giáo lý hay một giáo chủ và có một kết cấu là tổ chức giáo hội [21].
- Hoạt động tôn giáo
Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo.
1.1.3. Tổ chức tôn giáo và cơ sở tôn giáo
- Tổ chức tôn giáo: Tổ chức tôn giáo là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi không trái với thuần phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc; có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái với quy định của pháp luật. Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo.
- Cơ sở tôn giáo: Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, trụ sở của tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo.
1.1.4. Tín đồ, chức sắc, chức việc
- Tín đồ: Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Tín đồ là người tin, theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa nhận.
- Chức sắc: Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Chức sắc là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ phẩm vị trong tổ chức.
- Chức việc: Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Chức việc là người được tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo bổ nhiệm, bầu cử hoặc suy cử để giữ chức vụ trong tổ chức.
1.1.5. Quản lý nhà nước về tôn giáo ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng là hoạt động chức năng của quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước về tôn giáo hiện nay được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: Quản lý nhà nước về tôn giáo được hiểu là quá trình sử dụng quyền lực nhà nước (cả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp) theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng dẫn các hoạt động tôn giáo diễn ra phù hợp với quy định của pháp luật nhằm đạt được mục tiêu của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước về tôn giáo được hiểu là làm cho các tổ chức tôn giáo chấp hành và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước để điều chỉnh, định hướng hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Quản lý nhà nước về tôn giáo là chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước đề ra các quy định bằng pháp luật và hình thành nên khung pháp lý để mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo, làm cơ sở để hướng các tổ chức tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước về tôn giáo:
Một là, nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nghiêm cấm sự phân biệt, đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Ba là, công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng mọi quyền công dân và có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ công dân.
Bốn là, các hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ theo quy định pháp luật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Năm là, mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mọi hành vi lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi, xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, xâm hại đạo đức xã hội, xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, phá hoại sự đoàn kết toàn dân, làm tổn hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể khái quát quản lý nhà nước về tôn giáo là quá trình tác động, điều chỉnh các hoạt động tôn giáo diễn ra đúng quy định của pháp luật.
1.2. Sự cần thiết và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo
1.2.1. Sự cần thiết quản lý nhà nước về tôn giáo ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
- Vai trò của Nhà nước trong quản lý ngành và lĩnh vực
“Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN” [28].
Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Nhà nước và kinh tế: Nhà nước được quy định bởi kinh tế, do điều kiện kinh tế quyết định. Từ sự xuất hiện của nhà nước, bản chất, chức năng, hình thức, bộ máy nhà nước đều phụ thuộc vào đòi hỏi khách quan của cơ sở kinh tế, không phụ thuộc tuyệt đối, chỉ tương đối thể hiện ở 2 phương diện:
Nhà nước cùng các bộ phận khác của kinh tế tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển nhanh thông qua các chính sách kinh tế có căn cứ khoa học và phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại trong chừng mực nó phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị.
Nhà nước có thể đóng vai trò tiêu cực, cản trở sự phát triển kinh tế. Thể hiện chính sách kinh tế lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển chung của thế giới, kìm hãm sự phát triển của quan hệ sản xuất tiến bộ.
Nhà nước và tổ chức chính trị- xã hội: Các tổ chức chính trị xã hội là những hình thức và phương diện bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp.
Trong các tổ chức chính trị xã hội, nhà nước là trung tâm vì: Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, là tổ chức mà quyền lực của nó bắt buộc đối với mọi người trong quốc gia thông qua pháp luật.
Trong các tổ chức chính trị, Đảng chính trị có vai trò đặc biệt, là lực lượng có vai trò lãnh đạo, định hướng sự phát triển xã hội. Đảng chính trị là tổ chức của các giai cấp, thể hiện lợi ích giai cấp và gồm những đại biểu tích cực nhất đấu tranh cho lợi ích giai cấp mình. Đảng chính trị cầm quyền đề ra chính sách lớn định hướng cho hoạt động của nhà nước, kiểm tra hoạt động đảng viên trong việc thực hiện chính sách Đảng, các đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước.
Nhà nước và tổ chức xã hội: Tổ chức xã hội có vai trò quan trọng tùy thuộc vào quy mô, tính chất của tổ chức đó. Quan trọng nhất: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Công đoàn, thực hiện chức năng nhiệm vụ khác nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có vai trò khác nhau trong đời sống chính trị. Nhà nước và tổ chức xã hội có quan hệ chặt chẽ theo nguyên tắc hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Nhà nước và chính trị: Chính trị với tư cách là hiện tượng phổ biến xác định quan hệ giai cấp, tương quan lực lượng giai cấp, là sự biểu hiện tập trung của kinh tế trong xã hội có giai cấp. Trong xã hội, nó là sợi dây liên kết giữa nhà nước với cơ sở hạ tầng kinh tế với các bộ phận khác trong kiến trúc thượng tầng.
Các tổ chức chính trị đều thông qua chính trị để tác động lẫn nhau, đồng thời tác động đến các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng như tác động đến cơ sở kinh tế của xã hội. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Nhà nước và pháp luật: Pháp luật là công cụ để nhà nước duy trì sự thống trị, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Quyền lực của nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật, được thực hiện thông qua pháp luật và bị hạn chế bởi pháp luật.
- Ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống xã hội
Tôn giáo có ảnh hưởng quan trọng đến mọi mặt trong đời sống của xã hội cả ở phương diện tích cực lẫn phương diện tiêu cực.
Ảnh hưởng tích cực
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, cũng là một nhu cầu của xã hội. Và một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái khác của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội thì tôn giáo vẫn là nguồn gốc của giá trị đạo đức, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý.
Đó là một hình thái ý thức xã hội và nhu cầu xã hội quan trọng không thể thiếu trong đời sống xã hội, một khi nhu cầu này được thỏa mãn thì nó là động lực góp phần thúc đẩy phát triển các nhu cầu khác, trong đó có phát triển kinh tế – xã hội.
Đạo đức tôn giáo góp phần tạo niềm tin và tâm lý cho xã hội nói chung và tín đồ tôn giáo nói riêng để ổn định và phát triển kinh tế – xã hội.
Tôn giáo giúp con người đoàn kết, gắn bó, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, trong xây dựng kinh tế, xã hội.
Ảnh hưởng tiêu cực
Bên những mặt tích cực, tôn giáo cũng có một số hạn chế nhất định. Hạn chế này không phải nội tại, bản chất của tôn giáo gây ra mà là do chính những tín đồ và một số phần tử lợi dụng tôn giáo để thực hiện những mục đích cá nhân của mình.
Bản chất của tôn giáo chỉ là sự tin tưởng của con người trước một hiện tượng, sự vật nào đó… nhưng một số bộ phận đã quá đề cao và tuyệt đối hóa, thần thánh hóa lên làm cho một số tôn giáo bị hiểu sai lệch.
Một số phần tử xấu lợi dụng lòng tin tôn giáo của tín đồ, làm mê hoặc các tín đồ nhằm phục vụ mục đích cá nhân hòng trục lợi về kinh tế hoặc mưu đồ bất chính gây mất ổn định tình hình chính trị, xã hội, ảnh hưởng không tốt đến phát triển kinh tế.
- Đáp ứng nhu cầu chính đáng của một bộ phận đồng bào có đạo
Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là “tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”. Mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật và luôn xác định đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định pháp luật.
Để đáp ứng các nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng, hợp pháp của các tổ chức tôn giáo và người dân, các cấp có thẩm quyền đã giải quyết các nhu cầu chính đáng của các tổ chức tôn giáo như giao đất để sử dụng vào mục đích đất tôn giáo, cấp phép xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, chia tách cơ sở thờ tự… Chính quyền và các ban, ngành cũng tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo tổ chức những ngày lễ lớn, lễ trọng… Bên cạnh đó, nhà nước đã ban hành một hành lang pháp lý đầy đủ về công tác QLNN về tôn giáo; UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định công bố thủ tục hành chính mới ban hành trong lĩnh vực tôn giáo thuộc thẩm quyền giải quyết, niêm yết công khai các thủ tục hành chính tại Trung tâm Hành chính công tỉnh và thông báo rộng rãi đến UBND các cấp, để thuận lợi cho việc giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của người dân.
Trong những ngày lễ trọng của các tổ chức tôn giáo thì chính quyền, MTTQ, đoàn thể các cấp đến thăm, tặng quà cho các tổ chức, chức sắc tôn giáo tiêu biểu ở địa phương. Qua đó thể hiện sự quan tâm, chăm lo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với đời sống tinh thần của đồng bào có đạo, góp phần động viên, khích lệ chức sắc, tín đồ tôn giáo tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước.
Từ những ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống xã hội nên việc quản lý nhà nước về tôn giáo là thực sự cần thiết trong công tác quản lý nhà nước.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
1.2.2.1 Yếu tố khách quan
- Quan điểm phát triển và thể chế nhà nước về tôn giáo
Nhà nước là chủ thể quản lý các tôn giáo. Trong đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo, tăng cường đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào các tôn giáo là những nhiệm vụ trọng tâm.
Trong quá trình hoàn thiện mô hình nhà nước đã lựa chọn, hệ thống văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo của nước ta từng bước được hoàn thiện, thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo. Điều này được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013. Cụ thể: Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”, “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” đã mở rộng cho tất cả mọi người là công dân hoặc mất quyền công dân vẫn có quyền tin, theo tôn giáo, đồng thời khẳng định trách nhiệm bảo hộ của Nhà nước về quyền này.
Triển khai thực hiện Hiến pháp 2013, Quốc hội nước Cộng hòa XHCH Việt Nam đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Đây là văn bản quy phạm thể chế hóa cụ thể nhất các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của quần chúng và các hoạt động của các tôn giáo. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 199/QĐ-BNV ngày 31/01/2018 về việc công bố bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành; Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo. Quốc hội, Chính phủ tiếp tục ban hành và sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến tôn giáo như về đất đai, xây dựng,… Hệ thống chính sách được ban hành, sửa đổi, bổ sung có tác động tích cực trong việc bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của nhân dân, cũng như quản lý nhà nước về tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Nhà nước đã thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo, góp phần giữ vững ổn định tình hình xã hội, an ninh chính trị; đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường.
- Kinh tế thị trường
Tôn giáo đã tác động, ghi dấu ấn của mình lên các loại hình văn hóa dân tộc nói chung, nghệ thuật dân tộc nói riêng. Tôn giáo hiện diện trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đất nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận, hòa hợp xã hội, đoàn kết dân tộc, bình đẳng giới, trong phát triển nền kinh tế thị trường, trong giải quyết an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo, bảo vệ môi trường,…
Trong thời kỳ hội nhập, giao lưu quốc tế và kinh tế thị trường hiện nay, các tôn giáo ở Việt Nam đã, đang và sẽ trở thành một nguồn lực vật chất và tinh thần để phát triển xã hội, đóng góp vào các lĩnh vực văn hóa, xã hội, cộng đồng trách nhiệm với toàn thể dân tộc trong phát triển bền vững đất nước.
- Khoa học công nghệ
Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại khoa học mà trong đó mọi khía cạnh của đời sống đều có ảnh hưởng của khoa học công nghệ. Tác động của khoa học công nghệ có sức mạnh đặc biệt đối với niềm tin tôn giáo truyền thống. Nhiều khái niệm liên quan đến tôn giáo đang bị lung lay dưới áp lực của khoa học công nghệ.
1.2.2.2. Yếu tố chủ quan
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chính sách của nhà nước
Thực tế hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo rất phức tạp và nhạy cảm, đa dạng và thường xuyên phát sinh những vấn đề mới. Mặc dù hệ thống pháp luật về lĩnh vực tôn giáo của nước ta cơ bản hoàn thiện (mới được ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016) nhưng một số mặt, một số nội dung chưa bao quát hết được mọi hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Một số vấn đề phát sinh trong thực tế liên quan đến hoạt động tôn giáo, công tác tôn giáo nhưng trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định cụ thể gây ra sự khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Chưa có một chiến lược tổng thể và đầy đủ về phát triển kinh tế – xã hội ở các vùng có đông đồng bào tôn giáo, nhất là các giải pháp nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao hệ thống giao thông vùng giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu của nhân dân, nhất là nhân dân vùng giáo. Cần tập trung cho phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học nhằm nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân dân. Cần củng cố các thiết chế văn hóa hiện có như: Nhà văn hóa, thư viện nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân nói chung và đồng bào có đạo nói riêng.
Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở hiện nay chậm được đổi mới.
- Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức là công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
Tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đang trong giai đoạn hoàn thiện. Ở cấp xã chưa có cán bộ chuyên trách về công tác tôn giáo, cán bộ kiêm nhiệm công tác tôn giáo thường biến động, không phải là cán bộ chuyên trách nên không am hiểu sâu sắc về vấn đề tôn giáo, điều này gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết các vấn đề tôn giáo ở chính quyền cơ sở.
Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về tôn giáo vừa thiếu, vừa yếu. Đặc biệt là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ liên quan đến tôn giáo còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước trong tình hình mới. Chưa thấy hết được tính nhạy cảm và những diễn biến khó lường, phức tạp trong công tác tôn giáo. Một số cán bộ nắm chưa vững các quy định của pháp luật về giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo, do đó giải quyết sự việc một các vội vàng, không đúng trình tự quy định của pháp luật.
Nhận thức về tôn giáo và chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước về công tác tôn giáo trong một bộ phận cán bộ chưa thật đầy đủ, thiếu tính đồng bộ và thống nhất.
- Tín đồ, chức sắc, nhà tu hành
Các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã khai thác triệt để những khía cạnh hiện nay chưa được quy định cụ thể trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành mà có lợi cho tổ chức tôn giáo để thực hiện các hoạt động tôn giáo,…
Một bộ phận chức sắc tôn giáo có biểu hiện tăng cường tiếp xúc với cá nhân, tổ chức nước ngoài; một số chức sắc tôn giáo có biểu hiện bất hợp tác với chính quyền địa phương trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo.
Việc đòi lại, xin lại nhà đất có nguồn gốc tôn giáo tiếp tục diễn biến phức tạp, có những sự việc đã thấy có dấu hiệu chỉ đạo thống nhất của tổ chức tôn giáo. Một số nơi giáo hội đã chỉ đạo tín đồ thực hiện một số vụ việc khi chưa được sự đồng ý của chính quyền, tạo nên sự việc “đã diễn ra, đã rồi” buộc các cấp chính quyền phải có sự quan tâm giải quyết nhằm có lợi cho các tổ chức tôn giáo.
Mời bạn tham khảo thêm:
1.3. Chủ thể, nội dung và phương thức quản lý nhà nước về tôn giáo
1.3.1. Chủ thể và đối tượng quản lý ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
1.3.1.1. Chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo bao gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp gồm: Chính phủ, UBND các cấp ngoài; ra có các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền quản lý như: Bộ Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ban Tôn giáo Chính phủ – Bộ Nội vụ,…
Theo quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương 2015 thì hiện nay chủ thể tham gia quản lý nhà nước về tôn giáo, bao gồm:
- Ở Trung uơng:
- Cơ quan và chủ thể trực tiếp quản lý: Chính phủ.
- Cơ quan và chủ thể trực tiếp tham mưu thực hiện: Ban Tôn giáo Chính phủ – Bộ Nội vụ.
- Ở cấp tỉnh:
- Cơ quan và chủ thể trực tiếp quản lý: UBND tỉnh (Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND tỉnh).
- Cơ quan và chủ thể trực tiếp tham mưu thực hiện: Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ.
- Ở cấp huyện:
- Cơ quan và chủ thể trực tiếp quản lý: UBND cấp huyện (Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp huyện).
- Cơ quan và chủ thể trực tiếp tham mưu thực hiện: Phòng Nội vụ huyện (Phó Trưởng phòng) hoặc Phòng Tôn giáo (đối với địa phương có nhiều tôn giáo).
- Ở cấp xã:
- Cơ quan và chủ thể trực tiếp quản lý: UBND cấp xã (Chủ tịch UBND cấp xã).
- Chủ thể trực tiếp tham mưu thực hiện: Công chức Văn phòng – thống kê.
1.3.2.2. Đối tượng quản lý
Đối tượng của quản lý nhà nước về tôn giáo bao gồm: Tín đồ, nhà tu hành, chức sắc, chức việc, các tổ chức tôn giáo và các hoạt động của họ. Là công dân Việt Nam, các tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo vừa mang những đặc điểm chung của người Việt Nam, vừa mang những đặc điểm riêng của từng tôn giáo của người có đạo.
Quản lý nhà nước về tôn giáo là quá trình tác động, điều hành, điều chỉnh để các hoạt động tôn giáo diễn ra theo đúng quy định của pháp luật. Bao gồm:
- Tín đồ tôn giáo
Là người tin, theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa nhận. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, với số lượng tín đồ tôn giáo chiếm hơn 20% dân số cả nước. Vì vậy, quản lý nhà nước phải thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân thực hiện nhu cầu đó.
Ở nước ta đa số tín đồ tôn giáo là nông dân và nhân dân lao động. Họ là những con người cần cù, sáng tạo trong lao động, anh hùng, gan dạ trong chiến đấu. Trong thời kỳ đổi mới, đồng bào có đạo luôn gắn bó với Đảng, Nhà nước, thực hiện “sống tốt đời đẹp đạo”, cùng đoàn kết xây dựng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Nhà tu hành, chức sắc, chức việc tôn giáo
Nhà tu hành là tín đồ xuất gia, thường xuyên thực hiện nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật và quy định của tổ chức tôn giáo. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Chức sắc tôn giáo là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ phẩm vị trong tổ chức. Họ là những người lãnh đạo, hướng dẫn cho các tín đồ tôn giáo hành đạo theo pháp luật và giáo lý, giáo luật.
Chức việc tôn giáo là người được tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo bổ nhiệm, bầu cử hoặc suy cử để giữ chức vụ trong tổ chức.
Tất cả những người này đều là công dân, có quyền và nghĩa vụ như nhau trước pháp luật. Thực hiện tốt pháp luật và hành đạo theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo một cách hợp pháp.
- Nơi thờ tự là nơi tôn thờ thần tượng, nơi giảng bài kinh, thuyết pháp, sinh hoạt của các tôn giáo. Nơi thờ tự có sự thống nhất giữa: Vật chất, sự tôn nghiêm, trụ sở và sinh hoạt tôn giáo.
- Sinh hoạt tôn giáo là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo.
- Đồ dùng việc đạo, bao gồm: kinh, sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, cờ,… mỗi đồ dùng có vai trò và vị trí khác nhau, sử dụng trong từng nghi lễ khác nhau trong sinh hoạt tôn giáo.
- Các cơ sở vật chất khác, bao gồm khuôn viên khu vực thờ tự, nhà cửa, ruộng đất, cơ sở từ thiện, trường học… được các tổ chức tôn giáo sử dụng lâu dài và được pháp luật bảo hộ tính hợp pháp. Đó được coi là tài sản của các tôn giáo, của các giáo hội cơ sở, nơi thực hiện các chức năng như: Lao động sản xuất, sinh hoạt tôn giáo, từ thiện,… và đây cũng là nơi diễn ra các hoạt động của các tôn giáo, tổ chức giáo hội cơ sở.
1.3.2. Nội dung quản lý
- Xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Dựa trên cơ sở các chiến lược, kế hoạch quản lý nhà nước về tôn giáo, nhà nước đã xây dựng và ban hành hành các văn bản pháp luật để quản lý nhà nước về tôn giáo, như:
Nghị định số 69/1991/NĐ-HĐBT ngày 21/3/1991 về các hoạt động tôn giáo của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) là văn bản đầu tiên đã đề cập tương đối toàn diện các lĩnh vực hoạt động tôn giáo. Ngoài nội dung kế thừa các văn bản quy phạm pháp luật trước đó (Sắc lệnh 234/SL của Chính phủ ngày 14/6/1955 về vấn đề tôn giáo, Nghị quyết số 297/NQ của Chính phủ ngày 11/11/1977 về một số chính sách đối với tôn giáo,…), Nghị định còn chỉnh sửa và bổ sung một số nội dung mới.
Trước yêu cầu của tình hình mới ngày 19/4/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động tôn giáo, thay thế Nghị định số 69/HĐBT. Căn cứ Hiến pháp năm 1992 và thể chế hoá những quan điểm của Đảng trong Nghị quyết về công tác tôn giáo, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Khoá XI đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11/2004. Đây được xem như là sự kiện quan trọng đánh một dấu mốc lịch sử trên con đường hoàn thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Để việc thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 trong thực tiễn đạt hiệu quả thì Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ.
Trong thời gian qua, pháp luật về tôn giáo của Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Trong mỗi giai đoạn, pháp luật về tôn giáo đã kịp thời thể chế hoá những chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo. Nội dung pháp luật về tôn giáo khẳng định chính sách nhất quán tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới đất nước, pháp luật về tôn giáo đã có những đóng góp quan trọng trong việc củng cố sự đoàn kết, phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân tộc trong phát triển kinh tế và giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Điều 24).
Ngày 18/11/2016, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 có 9 chương, 68 điều, đã xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết theo Hiến chương, Điều lệ của các tôn giáo đã được nhà nước công nhận. Đồng thời xác định, Chính phủ Việt Nam tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập khi có sự khác nhau giữa quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và các điều ước đã được Việt Nam kí kết hoặc tham gia.
Đồng thời, để việc thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 thì ngày 30/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Nghị định số 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.
Ngoài bản Hiến pháp 2013 thì các văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật nêu trên là cơ sở và công cụ pháp lý cao nhất và quan trọng nhất để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không theo tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng.
- Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo
Ở Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý các lĩnh vực kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo.
Bộ Nội vụ – Cơ quan của Chính phủ, tham mưu, giúp Chính phủ quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo như: Tham gia đóng góp xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về tôn giáo. Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo trong phạm vi cả nước và thực hiện các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Các Bộ, ngành khác có liên quan phối hợp với Bộ Nội vụ trong quản lý nhà nước về tôn giáo (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Xây dựng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội…).
UBND các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương (Trong đó: Ban Tôn giáo là tổ chức tương đương chi cục, trực thuộc Sở Nội vụ, có chức năng giúp Giám đốc Sở Nội vụ tham mưu cho UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo; Phòng Nội vụ là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương; ở UBND cấp xã có công chức kiêm nhiệm công tác tôn giáo giúp Chủ tịch UBND quản lý nhà nước về tôn giáo).
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tôn giáo phải thường xuyên và đặc biệt chú trọng cán bộ cơ sở. Đội ngũ nhân sự làm công tác tôn giáo là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có chuyên môn nghiệp vụ đồng thời phải hiểu biết về tôn giáo và có kiến thức toàn diện.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện bằng nhiều hình thức như cung cấp tài liệu, tập huấn, tham gia các lớp học ngắn hạn, dài hạn về quản lý nhà nước nói chung và quản lý về tôn giáo nói riêng.
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật có một ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, là công việc không thể tách rời với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời phổ biến pháp luật cũng là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là phương tiện để truyền tải đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể nhân dân. Đối với lĩnh vực tôn giáo, một lĩnh vực nhạy cảm thì công tác phổ biến pháp luật cho chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo lại càng có ý nghĩa quan trọng. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo luôn được cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm, chú trọng, tập trung vào các nội dung như: Quán triệt phổ biến Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về công tác tôn giáo; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo,… với nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, nhằm triển khai kịp thời, thực hiện thống nhất, đồng bộ, hiệu quả các quy định của pháp luật về công tác tôn giáo; nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về công tác tôn giáo và đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo; giúp chức sắc, chức việc và bà con tín đồ các tôn giáo chuyển biến về nhận thức, chấp hành nghiêm pháp luật trong các hoạt động tôn giáo, đồng thời tạo sự đồng thuận giữa chính quyền với giáo hội.
- Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
Các tôn giáo lớn của Việt Nam như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành… đều du nhập từ bên ngoài; do đó các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam với mức độ khác nhau, trong phạm vi điều kiện hoạt động nhất định đều có mối quan hệ với các tôn giáo đồng đạo trên thế giới. Một số tôn giáo nội sinh cũng tăng cường tìm kiếm, mở rộng liên hệ với các cộng đồng dân cư trên toàn cầu để hành đạo. Các hoạt động này đã phản ánh một bức tranh sinh động đối với hoạt động quốc tế của các tôn giáo, góp phần tháo gỡ các rào cản ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao và nhiều mặt khác trong quá trình hội nhập hiện nay; đồng thời, đóng góp tích cực trong việc quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam ra thế giới.
Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam được các cơ quan quản lý quan tâm tạo điều kiện phù hợp với truyền thống mỗi nước, mỗi tôn giáo, đã tạo được sự ủng hộ của dư luận trong và ngoài nước. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn đã được Việt Nam tổ chức trọng thể, thành công thời gian qua, điển hình như: Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009 – 2010); Lễ Khai mạc Năm Thánh của Giáo hội Công giáo năm 2009; Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần thứ X (năm 2012), Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc (Vesak) năm 2008, 2014… với quy mô tổ chức hoành tráng, giàu bản sắc dân tộc, gây ấn tượng với bạn bè quốc tế, là minh chứng sinh động về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật liên quan về tín ngưỡng, tôn giáo
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ thuần túy nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của các tín đồ, chức sắc, nhà tu hành mà còn liên quan đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội và mọi công dân trong đời sống xã hội đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Tôn giáo và tất cả các hoạt động tôn giáo cũng không thể đứng ngoài hệ thống pháp luật.
Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa XI của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với hành vi lợi dụng tôn giáo, để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Báo cáo chính trị khóa XI trình tại Đại hội Đại biểu lần thứ XII nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”.
Để thực hiện tốt chủ trương, chính sách tôn giáo theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội khóa XII, cả hệ thống chính trị cần thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp cụ thể, trong đó có công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tôn giáo.
Thanh tra, kiểm tra về tôn giáo nhằm đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng của công dân, đảm bảo cho các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật; tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành để biết, hiểu rõ các quan điểm, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo của Đảng, nhà nước; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các tôn giáo.
1.3.3. Phương thức quản lý ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
- Quản lý bằng công cụ pháp luật, chính sách
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Bên cạnh tập quán, đạo đức tôn giáo, các quy định của tổ chức xã hội, dư luận xã hội, các quy ước của cộng đồng dân cư thì pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của nhà nước, giữa nhà nước và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động hỗ trợ lẫn nhau.
Hiện nay, nhà nước quản lý các hoạt động của đời sống xã hội bằng Hiến pháp, bộ luật, luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo hiện nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng hệ thống các văn bản như:
- Hiến pháp
- Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm
- Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
- Quyết định số 199/QĐ-BNV ngày 31/01/2018 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
- Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành.
- Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo.
- Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo; Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
- Các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan để quản lý hoạt động tôn giáo.
- Quản lý bằng tuyên truyền, giáo dục
Để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, Hiến pháp 2013 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Nhiệm vụ đầu tiên là phải ban hành pháp luật, tiếp đến là tổ chức thực hiện pháp luật, trong đó, nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) được xem là cầu nối giữa việc đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân. Mục đích của nhiệm vụ tuyên truyền, PBGDPL là nhằm xây dựng ý thức pháp luật, làm cho nhân dân, cán bộ, công chức có lòng tin vào pháp luật, có thói quen, động cơ tích cực trong thực hiện pháp luật.
Sinh thời, V.I.Lênin từng chỉ rõ: “Tuyên truyền là cần thiết và chúng ta không nên sợ phải lặp đi lặp lại… Và nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã quá chú ý nhiều đến việc tuyên truyền, thì cần nói rằng chúng ta còn phải làm việc đó nhiều hơn gấp trăm lần nữa”. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã đặc biệt coi trọng công tác giáo dục pháp luật, ngay từ Đại hội VI Đảng ta đã nhấn mạnh: Phải coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật.
Đưa việc giáo dục pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của nhà nước (kể cả các trường phổ thông, đại học), của các đoàn thể nhân dân. Cán bộ quản lý các cấp từ trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết pháp luật. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Chỉ thị đã tạo một bước phát triển mới về nhận thức và lãnh đạo công tác PBGDPL, thể hiện quyết tâm của Đảng và nhà nước, toàn dân ta trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Để triển khai thực hiện Chỉ thị này, Chính phủ ban hành Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010. Ngày 25/5/2017, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 705/QĐ-TTg ban hành chương trình PBGDPL giai đoạn 2017-2021 qua đó tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật trong toàn xã hội; đưa công tác PBGDPL dần ổn định, bền vững, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật của công dân.
Quản lý nhà nước về tôn giáo còn được thực hiện thông qua các biện pháp tuyên truyền PBGDPL cho nhân dân như lồng ghép trong các chương trình dạy học, đào tạo ở các trường lớp ở nhiều bậc học khác nhau, thông qua các hoạt động văn hóa, xã hội,…
Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật.
Thăm hỏi, gặp gỡ, trao đổi trực tiếp các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo để nắm bắt tâm tư nguyện vọng và nhu cầu chính đáng của đồng bào có đạo đồng thời tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách pháp luật của Đảng, nhà nước tới đồng bào có đạo.
- Quản lý nhà nước bằng công cụ kinh tế – hành chính
Nhà nước sử dụng phương thức quản lý hành chính đó là nhà nước tác động trực tiếp đến các cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý bằng quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ qua những mệnh lệnh dựa trên quyền lực nhà nước và sự phục tùng.
Công cụ kinh tế được nhà nước sử dụng một cách gián tiếp tác động lên đối tượng quản lý thông qua các đòn bẩy kinh tế. Nó được thể hiện dưới hai dạng: Thưởng hoặc phạt liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế.
Các cơ quan nhà nước nhà có thẩm quyền trong phạm vi quyền hạn của mình có thể áp dụng hình thức thưởng đối với các tổ chức tôn giáo, các cá nhân liên quan có thành tích tốt trong hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật. Hình thức thưởng mà các cơ quan nhà nước thưởng sử dụng có thể bằng tiền, hiện vật quy đổi,…
Phạt đối với các cá nhân, tổ chức tôn giáo có những hành vi, hoạt động tôn giáo trái với quy định của Hiến pháp, pháp luật. Tùy vào mức độ và hậu quả gây ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp xử phạt phù hợp theo quy định của pháp luật.
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo ở một số địa phương
1.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Quảng Điền là huyện tiếp giáp về phía Đông Nam của huyện Phong Điền, là huyện được chia tách từ huyện Huơng Điền cũ (gồm huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền và thị xã Huơng Trà). Huyện Quảng Điền hiện có 03 tôn giáo gồm Phật giáo, Công giáo và Tin lành với số lượng tín đồ khá đông (khoảng 17.583 tín đồ) chiếm 19,53% dân số toàn huyện Quảng Điền. Các tổ chức tôn giáo trên địa bàn huyện Quảng Điền ngày một tăng cường, củng cố đức tin, xây dựng, sửa chữa, nâng cấp, xây dựng cơ sở thờ tự; nội dung hoạt động đã bám vào Giáo luật, hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật; tín đồ các tôn giáo tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, từ thiện nhân đạo,… Tuy vậy, ở một số cơ sở tôn giáo chấp hành chưa nghiêm các quy định
của pháp luật, như: Cơi nới, lấn chiếm đất đai; nâng cấp, xây dựng, sửa chữa các cơ sở thờ tự không xin phép chính quyền; một số cá nhân lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo truyền đạo trái pháp luật. Từ thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo và tình hình tôn giáo của huyện Quảng Điền, bước đầu một số kinh nghiệm có thể rút ra là:
Một là, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết về công tác tôn giáo; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Tuyên truyền cho nhân dân nói chung và đồng bào có đạo nói riêng hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Hai là, quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo, tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; chủ động gặp gỡ, đối thoại tạo sự gần gũi, hiểu biết lẫn nhau giữa cấp ủy Đảng, chính quyền với các chức sắc, nhà tu hành. Động viên, khuyến khích chức sắc, tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt phương châm sống “Tốt đời, đẹp đạo” “Kính chúa yêu nước”, tham gia có hiệu quả các phong trào ở địa phương.
Ba là, quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giải quyết một vấn đề tôn giáo phải có ý kiến thống nhất của tất cả các cấp, các ngành có liên quan, có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ; tạo điều kiện đảm bảo cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo quy định của pháp luật; nắm bắt, xử lý kịp thời những vấn đề phức tạp phát sinh ngay từ cơ sở. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, xử lý nghiêm các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo vi phạm pháp luật, các phần tử lợi dụng tôn giáo để chống phá chính quyền làm mất ổn định tình hình an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Bốn là, phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, coi trọng công tác tuyên truyền, vận động quần chúng là người có đạo trong hoạt động tôn giáo; làm tốt công tác tranh thủ chức sắc, chức việc trong tôn giáo. Thông qua đó để tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh làm hạt nhân cho mọi phong trào. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo cũng như công tác phát triển đảng viên trong vùng đồng bào có đạo.
Năm là, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo từ huyện đến xã gắn với việc tăng cường tập huấn nghiệp vụ thường xuyên để nâng cao trình độ, năng lực và kỹ năng vận động của cán bộ, công chức.
1.4.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Hương Trà là thị xã tiếp giáp về phía Tây Nam của huyện Phong Điền. So với huyện Phong Điền và huyện Quảng Điền thì thị xã Hương Trà có nhiều lợi thế hơn về sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, cơ sở hạ tầng, đời sống của nhân dân được nâng cao, các dịch vụ phát triển mạnh trong những năm trở lại đây. Thị xã Hương Trà có đông đồng bào theo tôn giáo trong đó tập trung nhất là Phật giáo và Công giáo, với nhiều tổ chức tôn giáo cơ sở và cơ sở thờ tự lớn, nhỏ. Tình hình tôn giáo trên địa bàn thị xã ngày càng chuyển biến phức tạp do xu thế phát triển, các tổ chức tôn giáo tăng cường và củng cố tổ chức tôn giáo cơ sở, mở rộng quy mô số lượng tín đồ tham gia các hoạt động tôn giáo, tầm ảnh hưởng của các cơ sở tôn giáo ngày càng tăng. Một số phần tử tự xưng các tổ chức tôn giáo trái phép hoạt động nhằm lôi kéo quần chúng, tín đồ, chức sắc để phô trương lực lượng, công khai các tổ chức trái phép này và tăng cường chống phá gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về tôn giáo của thị xã Hương Trà. Từ những sự việc liên quan đến hoạt động tôn giáo diễn ra trên địa bàn thị xã Hương Trà thời gian vừa qua, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về tôn giáo như sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, triển khai sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là trên lĩnh vực tôn giáo cho cán bộ, nhân dân, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo hiểu và thực hiện tốt.
Hai là, tăng cường sự phối hợp, thống nhất chỉ đạo sâu sát, hiệu quả trong việc quản lý, cũng như giải quyết các vấn đề diễn biến phức tạp, các điểm nóng trong tôn giáo. Phát huy vai trò của người có uy tín trong các tổ chức tôn giáo, thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, tranh thủ chức sắc, chức việc, nhà tu hành làm công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật nhà nước đến người dân, tín đồ tôn giáo.
Ba là, thành lập Ban Chỉ đạo về công tác tôn giáo để xây dựng phương pháp quản lý, tổ chức điều hành, triển khai thực hiện và kiểm tra công tác; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo có lập trường chính trị vững vàng, đủ trình độ, năng lực và kinh nghiệm trong vận động cũng như xử lý các tình huống liên quan đến tôn giáo phát sinh trong đời sống hằng ngày.
Bốn là, thường xuyên tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát tình hình hoạt động các tôn giáo và công tác tôn giáo của chính quyền các cấp qua đó nhằm nâng cao nhận thức của chính quyền các cấp trong việc quản lý nhà nước về công tác tôn giáo; chú trọng công tác giải quyết khiếu nại nói chung, về đất đai tôn giáo nói riêng, coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Năm là, duy trì chế độ giao ban nghe báo cáo tình hình tôn giáo, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ công tác tôn giáo của các đơn vị nhằm phát hiện và xử lý ngay từ cơ sở những vụ việc liên quan đến công tác tôn giáo.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Trong những năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng cán bộ và nhân dân huyện nhà đã cố gắng nỗ lực vượt bậc để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng lên. Các mục tiêu về phát triển kết cấu hạ tầng, sản xuất phát triển, góp phần tăng năng lực sản xuất, thu hút nguồn lực đầu tư, hình thành các vùng động lực phát triển, giảm tỷ lệ hộ nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân đều đạt kết quả quan trọng. Văn hóa xã hội, giáo dục, y tế có chuyển biến tích cực. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh, dân chủ ở cơ sở được tăng cường. Công tác quy hoạch phát triển đô thị thị trấn, các trung tâm tiểu vùng tạo được diện mạo, khang trang hơn, bộ mặt nông thôn tiếp tục đổi mới.
Nhìn chung, cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên địa bàn huyện nói chung, đồng bào tôn giáo nói riêng ngày càng được cải thiện. Niềm tin của đồng bào có đạo đối với Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố và tăng cường; sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc được phát huy, đồng bào tôn giáo tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện diễn ra bình thường, ổn định, sinh hoạt của các tổ chức tôn giáo tuân thủ pháp luật, thực hiện tốt phương châm “sống tốt đời đẹp đạo”. Nhận thức của đa số cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta trong công tác tôn giáo được nâng lên. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng đã được quan tâm thường xuyên hơn; hoạt động quản lý Nhà nước về công tác tôn giáo từ huyện đến cơ sở có hiệu quả hơn; công tác tuyên truyền vận động, tranh thủ chức sắc, người có uy tín trong tín đồ các tôn giáo được tăng cường; chức sắc và đồng bào các tôn giáo chấp hành nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; xây dựng cuộc sống gắn bó giữa đạo với đời trong đồng bào có đạo, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tích cực tham gia vào việc phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh trên địa bàn huyện.
Nâng cao tính thiết thực của sự phối, kết hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và các quy định trong quản lý nhà nước về tôn giáo. Phòng Nội vụ huyện là phòng chuyên môn chịu trách nhiệm tham mưu trực tiếp cho UBND huyện, Chủ tịch UBND huyện trong quản lý nhà nước về tôn giáo; chủ động phối hợp với các phòng ban, chuyên môn, các tổ chức đoàn thể để làm tốt công tác tham mưu.
Kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ làm công tác tôn giáo chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác tôn giáo từ huyện đến cơ sở. Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, tập huấn về công tác tôn giáo, đặc biệt là những lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về các tôn giáo giúp cán bộ làm công tác tôn giáo nắm vững được các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vận dụng vào thực tiễn để tham mưu tốt cho cấp ủy và chính quyền các địa phương thực hiện tốt công tác tôn giáo. Thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo của huyện.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tôn giáo.
Trước những vụ việc liên quan đến hoạt động tôn giáo ở một số địa phương lân cận (như Quảng Điền, Hương Trà), có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh trật tự của huyện Phong Điền. Huyện ủy-HĐND-UBND- UBMTTQVN huyện Phong Điền phải chủ động, kịp thời chỉ đạo các ban, ngành có liên quan có các biện pháp xử lý các tình huống có thể xảy ra.
Trước những diễn biến khó lường trong hoạt động tôn giáo của các địa phương lân cận, huyện Phong Điền chỉ đạo chính quyền các địa phương tổ chức nắm chắc tình hình, sẵn sàng có biện pháp xử lý với các tình huống có thể xảy ra. Hạn chế việc trao đổi thông tin giữa các tín đồ có động cơ không tốt liên hệ và trao đổi với nhau nhằm tránh tình trạng lôi kéo làm bất ổn tình hình chính trị, xã hội trên địa bàn.
Chủ động phối hợp với các địa phương lân cận để nắm bắt tình hình, kịp thời có biện pháp xử lý. Trong tình hình xấu, ngoài khả năng và thẩm quyền giải quyết của huyện cần phải kịp thời báo cáo chính quyền cấp trên để xin ý kiến chỉ đạo và có biện pháp giải quyết kịp thời.
Tiểu kết Chương 1
Như vậy, qua nghiên cứu ban đầu tác giả đã phân tích và làm rõ một số vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu. ( Luận văn: Hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo VN )
Thứ nhất, tác giả đã phân tích và làm rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến tôn giáo như: Khái niệm tín ngưỡng, hoạt động tín ngưỡng; tôn giáo, hoạt động tôn giáo; tín đồ, chức sắc, chức việc; quản lý nhà nước về tôn giáo đây là những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài, là một trong những cơ sở khoa học quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài.
Thứ hai, tác giả đã chỉ ra sự cần thiết và các yếu tổ ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo như: Vai trò của nhà nước trong quản lý ngành và lĩnh vực; các yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo.
Thứ ba, tác giả cũng đã phân tích và chỉ rõ chủ thể, nội dung và phương thức quản lý nhà nước về tôn giáo gồm chủ thể và đối tượng quản lý, nội dung quản lý; các công cụ, phương thức mà nhà nước sử dụng trong quản lý nhà nước về tôn giáo.
Thứ tư, tác giả cũng đã liên hệ, trao đổi kinh nghiệm với một số địa phương lân cận huyện Phong Điền như: huyện Quảng Điền, thị xã Hương Trà trong công tác QLNN về tôn giáo. Đồng thời, tác giả cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm cho huyện huyện Phong Điền trong công tác QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện.
Những nội dung mà tác giả phân tích tại chương 1 là tiền đề và cơ sở để tiếp tục nghiên cứu các chương tiếp theo.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Thực trạng quản lý Nhà nước về tôn giáo VN hiện nay

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com