Luận văn Thực trạng hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch châu âu tới việt nam

Rate this post

Đề tài “Hoàn thiện hoạt động Marketing Mix nhằm thu hút khách du lịch Châu Âu tới Việt Nam” được nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp về Marketing Mix. Về cơ bản, luận văn đã nêu được những giải pháp có tính khả thi, có khả năng áp dụng vào tình hình thực tiễn của du lịch Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong bài viết này mình chia sẻ cho các bạn Bài mẫu Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch Châu Âu tới Việt Nam, mời các bạn cùng tham khảo.

CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM KHÁCH DU LỊCH CHÂU ÂU VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING MIX TRONG DU LỊCH TẠI VIỆT NAM

Nội dung chính

2.1. Giới thiệu tổng quan về ngành du lịch Việt Nam

  • Lịch sử hình thành và phát triển

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02 tháng 9 năm 1954, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày thành lập ngành du lịch Việt Nam tính là ngày 09 tháng 7 năm 1960 theo Nghị định số 26/CP của Hội đồng Chính phủ về “Thành lập Công ty Du lịch Việt Nam” trực thuộc Bộ Ngoại thương. Thời kỳ này, ngành du lịch Việt Nam không có điều kiện để phát triển vì đất nước đang trong tình trạng chiến tranh. Cơ sở vật chất ban đầu rất khiêm tốn, số lượng cán bộ công nhân viên còn ít và chưa được đào tạo chuyên sâu về du lịch nên hiệu quả kinh tế xã hội của du lịch chưa cao. Sau năm 1975, đất nước Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới, du lịch Việt Nam cũng có những biến chuyển mới sau những biến động chính trị của các nước khu vực Đông Âu và Liên Xô cũ, đường lối đổi mới kinh tế của đất nước đã làm thay đổi cơ bản ngành du lịch Việt Nam. Một số mốc thời gian quan trọng trong quá trình phát triển của du lịch Việt Nam:

  • Ngày 27 tháng 6 năm 1978, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị định số 262 NQ/QHK6 thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Chính sự thay đổi về mặt tổ chức này đã mở rộng thẩm quyền và chức năng của cơ quan quản lý du lịch, giai đoạn này bộ máy tổ chức và quản lý của Tổng cục Du lịch Việt Nam dần được kiện toàn.
  • Ngày 23 tháng 01 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 32/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch Việt
  • Năm 1981, Việt Nam vinh dự được trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Du lịch thế giới (The United Nations World Tourism Organization – UNWTO).
  • Ngày 03 tháng 01 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 01/HĐBT giao Tổng cục Du lịch kiêm nhiệm vụ trực tiếp hoạt động kinh doanh du lịch; giải thể Công ty Du lịch Việt Nam.
  • Ngày 15 tháng 8 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 120-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
  • Ngày 31 tháng 3 năm 1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Quyết nghị số 244/NQ/HĐNN8 thành lập Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao – Du lịch quản lý cấp Nhà nước đối với ngành du lịch.
  • Ngày 12 tháng 8 năm 1991, Nghị quyết Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 8 sáp nhập Tổng cục Du lịch vào Bộ Thương mại và Du lịch.
  • Ngày 26 tháng 10 năm 1992, Chính phủ ban hành Nghị định số 05-CP về việc thành lập Tổng cục Du lịch là cơ quan trực thuộc Chính phủ.
  • Năm 1994, thành lập Chi hội PATA (Hiệp hội du lịch Châu Á Thái Bình Dương – Pacific Asia Travel Association) Việt Nam.
  • Ngày 07 tháng 8 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 53/CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.
  • Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội ban hành Luật Du lịch số 44/2005/QH11, đánh dấu bước tiến quan trọng về khuôn khổ pháp lý.
  • Ngày 08 tháng 8 năm 2007, Nghị định số 09/NĐ-CP của Chính phủ sáp nhập Tổng cục Du lịch vào Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của Tổng cục Du lịch

Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch được quy định tại Quyết định số 23/2014/QĐ-TTg ngày 13 tháng 3 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm có 07 vụ chức năng: Vụ Lữ hành; Vụ Khách sạn; Vụ Thị trường du lịch. Vụ Kế hoạch, Tài chính; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Tổ chức cán bộ; Văn phòng, và 04 đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục gồm: Viện Nghiên cứu phát triển du lịch; Tạp chí Du lịch Việt Nam; Báo Du lịch; Trung tâm Thông tin du lịch.

  • Chức năng của các đơn vị trong Tổng cục Du lịch

Vụ Lữ hành: tham mưu giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về các hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch, vận chuyển khách du lịch, quản lý khai thác tài nguyên du lịch, loại hình du lịch, quản lý các khu, tuyến, điểm, đô thị du lịch trên phạm vi cả nước và các dịch vụ công về du lịch theo phân công, phân cấp và quy định của pháp luật.

Vụ Khách sạn: tham mưu và tổ chức thực thi pháp luật về lưu trú du lịch và các dịch vụ liên quan trong lĩnh vực lưu trú trên phạm vi cả nước theo phân công, phân cấp và quy định của pháp luật.

Vụ Thị trường du lịch: tham mưu giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về nghiên cứu, định hướng phát triển thị trường, sản phẩm du lịch, quảng bá, xúc tiến du lịch theo phân công, phân cấp và quy định của pháp luật.

Vụ Kế hoạch và Tài chính: tham mưu giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật trong công tác tài chính, quy hoạch, kế hoạch, đầu tư, thống kê, khoa học, công nghệ, tài nguyên, môi trường trong ngành du lịch theo phân công, phân cấp và quy định của pháp luật.

Vụ Hợp tác quốc tế: tham mưu giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực du lịch theo phân công, phân cấp và quy định của pháp luật.

Vụ Tổ chức cán bộ: tham mưu giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, đào tạo bồi dưỡng và các chế độ chính sách đối với công chức, viên chức và người lao động trong lĩnh vực du lịch theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và quy định của pháp luật.

Văn phòng: tham mưu, giúp Tổng cục trưởng tổng hợp về chương trình, kế hoạch công tác; Đảm bảo các điều kiện phục vụ các hoạt động của cơ quan Tổng cục; Kiểm soát thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật; Giúp Tổng cục trưởng tổng hợp, theo dõi, đôn đốc các tổ chức, đơn vị thuộc Tổng cục thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Tổng cục đã được phê duyệt. Văn phòng có con dấu riêng, có tài khoản tại Kho bạc Nhà nước. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Trung tâm Thông tin du lịch: thực hiện chức năng thông tin, nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong ngành du lịch và phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch.

Viện Nghiên cứu phát triển du lịch: nghiên cứu xây dựng chiến lược, quy hoạch, chính sách du lịch phục vụ công tác quản lý nhà nước về du lịch; Cung cấp dịch vụ nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành.

Tạp chí Du lịch: thực hiện chức năng thông tin, nghiên cứu, trao đổi, tuyên truyền các vấn đề về chính sách, pháp luật và nghiệp vụ trong lĩnh vực du lịch; Thông tin các hoạt động của Tổng cục Du lịch và các ngành có liên quan đến công tác phát triển du lịch theo quy định của pháp luật.

Báo Du lịch: là cơ quan ngôn luận của Tổng cục Du lịch, thực hiện chức năng thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về du lịch và hoạt động của ngành Du lịch; Thông tin các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội trong nước và quốc tế theo quy định của pháp luật. Báo Du lịch hoạt động theo Luật Báo chí, chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng cục Du lịch và quản lý nhà nước về báo chí và xuất bản của Bộ Thông tin và Truyền thông.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

  • Đặc điểm và tiềm năng của du lịch Việt Nam

Đặc điểm khí hậu và địa hình

Đặc điểm khí hậu

Việt Nam nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo cho Việt Nam có một nền nhiệt độ cao, trung bình năm từ 22 độ C đến 27 độ C. Hàng năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000 mm; độ ẩm không khí trên dưới 80%. Chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của thiên nhiên Việt Nam thay đổi. Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh, ít mưa. Trên nền nhiệt độ chung đó, khí hậu của các tỉnh phía bắc (từ đèo Hải Vân trở ra Bắc) thay đổi theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Do ảnh hưởng gió mùa, hơn nữa lại có sự phức tạp về địa hình nên khí hậu của Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm, từ giữa năm này với năm khác và giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam, từ thấp lên cao).

  • Đặc điểm địa hình

Về tổng thể, Việt Nam có các dạng địa hình đặc biệt chủ yếu gồm có địa hình Karst (đá vôi), địa hình bờ biển và địa hình đảo. Lãnh thổ Việt Nam bao gồm ba phần tư là đồi núi nhưng chủ yếu là đồi núi thấp, hai đồng bằng lớn, nhiều sông ngòi và có đường bờ biển dài. Đất liền: bao gồm núi, đồng bằng và hệ thống sông ngòi.

Bốn vùng núi chính:

  • Vùng núi Đông Bắc: kéo dài từ thung lũng sông Hồng đến vịnh Bắc Bộ, với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: động Tam Thanh, Nhị Thanh ở Lạng Sơn; hang Pắc Pó, thác Bản Giốc ở Cao Bằng; hồ Ba Bể ở Bắc Kạn; núi Yên Tử ở Quảng Ninh; đỉnh núi Tây Côn Lĩnh ở Hà Giang với độ cao 431 mét, cao nhất vùng Đông Bắc.
  • Vùng núi Tây Bắc: kéo dài từ biên giới phía bắc (giáp Trung Quốc) tới phía Tây tỉnh Thanh Hóa. Đây là vùng núi cao hùng vĩ, có Sa Pa (Lào Cai), có di tích chiến trường lừng danh Điện Biên Phủ và đỉnh núi Phan Xi Păng – đỉnh núi cao nhất Đông Dương.
  • Vùng núi Trường Sơn Bắc: kéo dài từ phía tây tỉnh Thanh Hóa đến vùng núi Quảng Nam – Đà Nẵng, có vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng ở Quảng Bình là di sản văn hóa thế giới, đường mòn Hồ Chí Minh,…
  • Vùng núi Trường Sơn Nam: nằm ở phía tây các tỉnh Nam Trung Bộ. Sau những khối núi đồ sộ là một vùng đất rộng lớn được gọi là Tây Nguyên. Vùng đất đầy huyền thoại này còn chưa đựng nhiều điều bí ẩn về động thực vật, nhất là nền văn hóa đặc sắc của các bộ tộc ít người. Nổi tiếng hơn cả chính là thành phố Đà Lạt – địa điểm du lịch lý tưởng được hình thành từ cuối thế kỷ

Hai đồng bằng lớn: ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

  • Đồng bằng sông Hồng (đồng bằng Bắc Bộ): rộng khoảng 15.000 km vuông, được bồi đắp bởi phù sa của hai con sông lớn là sông Hồng và sông Thái Bình. Đây là địa bàn cư trú của người Việt cổ và cũng là nơi hình thành nền văn minh lúa nước.
  • Đồng bằng sông Cửu Long (đồng bằng Nam Bộ): rộng trên 000 km vuông, là vùng đất phì nhiêu, khí hậu thuận lợi. Nơi đây còn là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam.

Sông ngòi:

Trên lãnh thổ Việt Nam có hàng nghìn con sông lớn, nhỏ. Dọc bờ biển, cứ khoảng 20 km lại có một cửa sông. Do đó, hệ thống giao thông đường thủy khá thuận lợi. Hai hệ thống sông quan trọng là sông Hồng ở miền Bắc và sông Cửu Long (Mê Kông) ở miền Nam.

Vùng biển:

Việt Nam có 3.260 km bờ biển với nhiều cảnh quan phong phú, đa dạng, có nhiều bãi biển đẹp như: Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Lăng Cô, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu,… Có Vịnh Hạ Long, đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Giữa vùng biển Việt Nam còn có hệ thống đảo và quần đảo gồm hàng ngàng đảo lớn nhỏ nằm rải rác từ Bắc đến Nam, trong đó có hai quần đảo lớn là Hoàng Sa và Trường Sa.

  • Tiềm năng du lịch của Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng về du lịch, thể hiện ở các thế mạnh sau:

  • Danh thắng

Cùng với khí hậu đã dạng là địa hình tuyệt với với hơn 3.000 km bờ biển tạo nên những bãi cát trải dài, những dải núi đồ sộ, hoang sơ. Hiếm có đất nước nào có được sự đa dạng, phong phú về thiên nhiên như ở Việt Nam.

Việt Nam có 30 vườn quốc gia, 400 nguồn suối nước nóng, với 3 di sản thiên nhiên của thế giới là vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, và quần thể danh thắng Tràng An với các hang động nổi tiếng. Chỉ tính riêng tỉnh Quảng Bình đã thống kê được 300 hang động, trong đó có những hang động hoang sơ lớn nhất thế giới, rất ít người từng đặt chân đến như hang động Sơn Đoòng, đã được kênh truyền hình ABC của Mỹ đến quay phim và giới thiệu.

Với 125 bãi tắm biển, Việt Nam đứng thứ 27 trong số 156 quốc gia có biển trên thế giới, và sở hữu 02 vịnh đẹp nhất thế giới là vịnh Hạ Long và vịnh Nha Trang.

  • Di tích ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Không chỉ có những kỳ quan thiên nhiên tươi đẹp, Việt Nam còn có nhiều di tích nổi tiếng, đưa vào danh sách di sản thế giới của UNESCO, bao gồm: Thành nhà Hồ, Hoàng thành Thăng Long, Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn… Đây là những điểm thu hút khách du lịch tham quan, tìm hiểu lịch sử, văn hóa nghìn năm văn hiến của nước Việt.

  • Văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng:

Việt Nam thời cổ đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, trong đó mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, mà cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng, chúng là đối tượng được người Việt cổ tin thờ. Tín ngưỡng dân gian trong đó có tục lệ thờ cúng tổ tiên tồn tại rất lâu đời, và vẫn còn kéo dài đến ngày nay. Theo thống kê, có tới 45,3% người Việt Nam theo tín ngưỡng dân gian; 16,4% theo Phật giáo; 8,2% Kito giáo; và các loại hình tôn giáo khác.

Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc, mỗi dân tộc lại những nét văn hóa truyền thống riêng như: tục cướp dâu của dân tộc H’Mông, tục cưới hỏi của người Kinh, lễ hội đâm trâu người Ba Na, tục thờ Mẫu,… Tất cả tạo nên một đất nước Việt Nam đầy màu sắc văn hóa truyền thống. Mặc dù là một quốc gia đa dân tộc nhưng các nét văn hóa của mỗi dân tộc lại được phát triển trong sự thống nhất của một quốc gia.

Nét đặc biệt nhất và cũng là thế mạnh của du lịch Việt Nam đó là các di sản văn hóa phi vật thể. Rất nhiều loại hình văn hóa dân gian trải qua hàng nghìn năm lịch sử vẫn được bảo tồn và phát huy, trong đó có các di sản văn hóa phi vật thể thế giới như: Nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Quan họ, Ca trù, Hội Gióng, Hát xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương… Tất cả đó đã tạo nên nét khác biệt cho du lịch Việt Nam mà du khách quốc tế không thể tìm thấy ở nơi khác.

  • Ẩm thực

Đồng hành với yếu tố lịch sử hào hùng là một nền ẩm thực phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt Nam. Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng miền, mỗi miền có một nét, khẩu vị đặc trưng. Điều đó góp phần làm ẩm thực Việt Nam phong phú, đa dạng.

Đặc trưng ẩm thực Việt Nam toát lên vẻ khác biệt khi so sánh với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới: món ăn Trung Hoa bổ dưỡng cầu kỳ trong chế biến; món ăn Nhật Bản nhìn thích mắt, thiên về bày biện, thẩm mỹ cao; trong khi món ăn Việt Nam chú trọng vào phối trộn gia vị tạo nên sự ngon miệng.

Ngoài ra, các yếu tố khác như điều kiện chính trị, pháp luật, tình hình an ninh tốt cũng là những thuận lợi cho ngành du lịch Việt Nam. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

  • Đối thủ cạnh tranh

Thị trường du lịch Đông Nam Á gồm 11 quốc gia: Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Đông Timo và Brunei. Trong đó có 04 quốc gia chính là: Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của du lịch Việt Nam, ngoài ra có Philippines là đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Các nước còn lại có doanh thu về du lịch quốc tế đến thấp và chiếm thị phần không đáng kể trong khu vực và trên thế giới.

Năm 2014, doanh thu từ du lịch quốc tế của Thái Lan đạt 40,3 tỉ USD, dẫn đầu khu vực Đông Nam Á, và đứng thứ 10 trên thế giới, khẳng định vị thế một cường quốc về du lịch. Tuy nhiên những bất ổn về mặt chính trị đã kéo lùi nền kinh tế – du lịch của nước Thái, so với năm 2013 doanh thu du lịch quốc tế của Thái Lan đạt 45,4 tỉ USD, xếp thứ 7 thế giới.

Ngoại trừ Thái Lan, các quốc gia khác đều có sự tăng trưởng về doanh thu du lịch. Đứng sau Thái Lan là Malaysia với 22,6 tỉ USD, xếp hạng 14 thế giới; quốc đảo Singapore với doanh thu 18,9 tỉ USD, xếp hạng 20; Indonesia cũng đạt 11,2 tỉ USD. Doanh thu từ du lịch quốc tế của Việt Nam năm 2014 đạt 7,8 tỉ USD, tăng so với năm 2013 (6,6 tỉ USD) và vượt qua ngưỡng trung bình của thế giới. Có thể nói Việt Nam đã có mức tăng trưởng về du lịch nhanh chóng trong thời gian gần đây, tuy nhiên nếu so với các quốc gia có thế mạnh về du lịch ở Đông Nam Á, Việt Nam vẫn còn kém khá xa.

Chúng ta hãy cùng phân tích, nhận định về các đối thủ cạnh tranh trực tiếp của du lịch Việt Nam:

  • Vương quốc Thái Lan:

Vị trí địa lý: ở vị trí trung tâm Đông Nam Á, là cửa ngõ tự nhiên đi vào Đông Dương, Miến Điện và miền Nam Trung Hoa, được chia thành bốn vùng tự nhiên theo hình thể và địa lý: rừng núi phía Bắc, ruộng lúa bao la đồng bằng miền Trung, cao nguyên đất nông trại nửa khô hạn miền Đông bắc, và các đảo vùng nhiệt đới nằm dọc bờ biển và bán đảo ở miền Nam.

Vốn đầu tư phát triển du lịch (2014): 7,2 tỉ USD.

Điểm mạnh:

  • Phát triển du lịch từ những năm 1960 khi nước Mỹ tham gia vào chiến tranh Việt Nam, chọn Thái Lan là nơi nghỉ chân. Thái Lan đã tận dụng rất tốt cơ hội này để đẩy mạnh ngành du lịch phát triển, năm 2007 đã đạt 14 triệu lượt khách quốc tế, với số ngày lưu trú của khách trung bình là 9,19 ngày, doanh thu 12,4 tỉ
  • Nhiều địa danh văn hóa, lịch sử, thắng cảnh thiên nhiên đẹp với truyền thống văn hóa đặc sắc, thu hút khách tham quan chiêm ngưỡng.
  • Du lịch dịch vụ rất phát triển, đặc biệt là du lịch tình dục và chuyển giới đã góp phần không nhỏ vào doanh thu du lịch của Thái Lan.
  • Hầu hết các quốc gia tới Thái Lan đều được miễn thị thực với thời gian lưu trú tối đa 30 ngày. Các nước khác có thể lấy thị thực khi nhập cảnh, với thời gian lưu trú tối đa 15 ngày.

Điểm yếu: ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

  • Bất ổn về chính trị đã kéo nền kinh tế, du lịch của Thái Lan xuống rất nhiều, tạo cơ hội cho các nước cạnh tranh như Việt Nam, Philippines rút ngắn khoảng cách.
  • Thiên tai: Trận đại hồng thủy vào năm 2011 đã làm thiệt hại của đất nước này 5,1 tỉ USD, ảnh hưởng nghiêm trọng nền công nghiệp Thái Lan, làm giảm từ 0,6-0,9% tốc độ tăng trưởng kinh tế.
    • Malaysia:

Vị trí địa lý: Malaysia tách làm hai phần qua biển Đông gồm: Malaysia bán đảo và Borneo thuộc Malaysia. Malaysia là một quốc gia nhiệt đới, một trong 17 quốc gia đa dạng sinh học siêu cấp trên Trái Đất, với nhiều loài đặc hữu. Đây là một quốc gia đa dân tộc và đa văn hóa, đặc điểm này đóng vai trò lớn trong chính trị quốc gia.

Vốn đầu tư phát triển du lịch (2014): 5,9 tỉ USD.

Điểm mạnh:

  • Kinh tế phát triển tốt nhất Châu Á, GDP tăng trưởng trung bình 6,5% trong gần 50 năm. Ngoài các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Malaysia còn rất phát triển trong các lĩnh vực khoa học, công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
  • Du lịch rất phát triển, đặc biệt là du lịch mua sắm, nghỉ dưỡng và chữa bệnh. Nét nổi bật của du lịch Malaysia là các sản phẩm du lịch đa dạng, đẳng cấp quốc tế với mức giá cạnh
  • Sở hữu sự giao thoa văn hóa tạo nên nét đặc sắc, nhiều điểm đến hấp dẫn, từ thành phố đến vùng núi hoang sơ, bãi biển đẹp, rừng nhiệt đới,…

Điểm yếu:

  • Những vấn đề về an ninh, an toàn hàng không, đặc biệt là các vụ mất tích máy bay MH370 ảnh hưởng nghiêm trọng tới hình ảnh của
  • Đa sắc tộc, đa dạng về văn hóa, tôn giáo, Malaysia tiềm ẩn những bất ổn về chính trị, bất đồng và mẫu thuẫn về tự do tôn giáo với các chính sách của Chính phủ.
    • Cộng hòa Singapore:

Vị trí địa lý: Đảo quốc nằm ngoài khơi mũi phía nam của bán đảo Mã Lai và cách xích đạo 137 km về phía bắc. Lãnh thổ Singapore gồm có một đảo chính hình thoi, và khoảng 60 đảo nhỏ hơn.

Vốn đầu tư phát triển du lịch (2014): 13,8 tỉ USD. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Điểm mạnh:

  • Singapore là một trong các trung tâm thương mại lớn của thế giới, với vị thế trung tâm tài chính lớn thứ tư và một trong năm cảng bận rộn nhất. Theo sức mua tương đương, Singapore có thu nhập bình quân đầu người cao thứ ba trên thế giới. Quốc gia này xếp hạng cao trong các bảng xếp hạng quốc tế liên quan đến giáo dục, chăm sóc sức khỏe, sự minh bạch của chính phủ, và tính cạnh tranh kinh tế.
  • Quốc gia văn minh, sạch đẹp thuộc bậc nhất Châu Á, là điểm đến hấp dẫn cho các du khách muốn nghỉ dưỡng, mua sắm, thưởng thức ẩm thực.
  • Đầu tư vào quảng cáo, xúc tiến du lịch cực lớn.

Điểm yếu:

  • Diện tích khiêm tốn cộng với tốc độ đô thị hóa cao, Singapore có rất ít những thắng cảnh thiên nhiên, thảm thực vật nguyên sinh còn lại rất nhỏ.

Cộng hòa Indonesia:

Vị trí địa lý: Mệnh danh là đất nước vạn đảo với 13.487 hòn đảo, có nhiều khu vực hoang vu và là quốc gia có mức độ đa dạng sinh học đứng hàng thứ hai thế giới. Nước này rất giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Vốn đầu tư phát triển du lịch (2014): 14,1 tỉ USD.

Điểm mạnh:

  • Với độ đa dạng sinh học, Indonesia có rất nhiều khu sinh thái đủ chủng loại động thực vật; nhiều biển đảo đẹp với đảo Bali nổi tiếng mệnh danh là thiên đường hạ giới.
  • Vốn đầu tư phát triển du lịch cực lớn, năm 2014 đứng đầu Đông Nam Á về đầu tư du lịch.

Điểm yếu:

  • Quốc gia đông dân thứ tư thế giới, Indonesia phải đối mặt với tình trạng đói nghèo, ô nhiễm môi trường, bất ổn về chính trị.
  • Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên ồ ạt dẫn tới hệ sinh thái Indonesia bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

2.2. Số liệu, đặc điểm khách du lịch Châu Âu tới Việt Nam ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

  • Số liệu khách du lịch Châu Âu tới Việt Nam giai đoạn 2012-2015

Từ sau sự kiện đại Lễ “Lễ hội 1000 năm Thăng Long – Hà Nội” vào năm 2010, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh, đạt mức 5,05 triệu lượt khách, tăng 34,8% so với năm 2009. Sang đến năm 2012 và 2013, 2014 và 2015 lượng du khách quốc tế đến Việt Nam tăng trưởng khá đều, trong đó khách Châu Âu tăng vọt, điển hình là nước Nga. Mặc dù giai đoạn 2007 – 2013 là giai đoạn phát triển khá mạnh mẽ của ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt là Du lịch quốc tế đến Việt Nam, nhưng mức tăng trưởng của lượt khách đến năm 2012 và 2013 lại giảm dần, do các hoạt động xúc tiến quảng bá cho du lịch ngưng trệ và chưa có nhiều động thái mới tích cực. Tuy nhiên, đây cũng là những con số đáng chúc mừng cho sự trở lại sau khoảng thời gian khó khăn (do khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2009) của ngành du lịch Việt Nam.

  • Đặc điểm khách du lịch Châu Âu

Tính cởi mở, nói nhiều, tự do, phóng khoáng, vui buồn dễ thể hiện trên nét mặt. Họ dễ thích nghi với môi trường mới, cử chỉ tự nhiên trong giao tiếp rộng, thẳng thắn, thực tế. Đề tài nói chuyện của người châu Âu thường là những vấn đề mang tính chung chung (thể thao, du lịch, nghệ thuật, âm nhạc..) Họ tránh nói về những đặc điểm cá nhân, chủng tộc, thu nhập, gia đình, việc làm ăn buôn bán…

Có trình độ văn hoá và hiểu biết tương đối cao, đa số đều có thể sử dụng những ngôn ngữ phổ biến (Pháp, Anh, Nga, Latinh…)

Thiên chúa giáo là tôn giáo phổ biến ở châu Âu, tuy nhiên tôn giáo không quá ảnh hưởng đến đời sống và sinh hoạt của người châu Âu như những dân tộc khác ở châu Á.

Người châu Âu thường lịch sự, chính xác, thực tế, độc lập trong suy nghĩ.

Người châu Âu trọng hình thức ăn mặc, họ thích sự gọn gàng, ngăn nắp, vệ sinh, đặc biệt là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm (trong ăn uống).

Khẩu vị của họ thiên về chất béo, thịt hải sản và các sản phẩm từ sữa, họ ít ăn rau và không quen ăn rau muối (ngoại trừ người Nga và một số quốc gia Đông Âu).

Họ thường uống nhiều rượu, phổ biến nhất là Whisky, Brandy, Vang, Vodka, cô- nhắc, các loại bia… Cà phê cũng là đồ uống phổ biến. Nhìn chung tập quán và khẩu vị ăn uống của người Âu có một số điểm như:

Các bữa ăn trong ngày gồm 3 bữa: bữa sáng thường là những món ăn nhẹ như: bánh mì, trứng, bơ, phomat, càphê, sữa, nước quả, đồ nguội…bữa trưa thường dùng đồ nguội làm món khai vị sau đó dùng các món chính như: thịt cá, rau, hoa quả, bánh ngọt… Bữa tối thường khai vị bằng đồ nguội, hoặc súp, các món chính là các loại thịt, hải sản, rau bơ, pho mát, các loại rượu…

Do lối sống công nghiệp tác động vào sinh hoạt hàng ngày của người Âu nên bữa sáng và bữa trưa của họ tương đối đơn giản (thậm chí người ta còn dùng thức ăn nhanh) bữa tối thường là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày của họ. Ngoài ra họ có thói quen vừa ăn, vừa uống, những loại rượu thường uống kèm tương ứng với thức ăn có thể dùng cả nước ngọt, bia nước suối, nước hoa quả trong bữa ăn.

+ Cách ăn và sử dụng dụng cụ ăn uống của người Âu: Dụng cụ ăn thường là dao, thìa, dĩa với chức năng riêng biệt, mỗi món ăn dùng một dụng cụ khác nhau, đa số người Âu dọn ăn theo kiểu ăn từng món (từ khai vị, món chính, đến món tráng miệng … hết món này mới ăn tiếp món khác). Thức ăn được để trong đĩa, ăn súp thì dùng đĩa sâu và dùng thìa, các món khác được để trong đĩa nông, và dùng dao và nĩa.

Khách du lịch là người châu Âu thường có những hiểu biết tương đối về du lịch, đa số có kinh nghiệm đi du lịch. Họ có khả năng thanh toán tương đối cao, thích các loại hình du lịch biển, sinh thái, văn hoá. Họ yêu cầu tương đối chặt chẽ về chất lượng các sản phẩm, dịch vụ du lịch. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

  • Những đóng góp của khách du lịch Châu Âu vào nền kinh tế

Với mục tiêu phát triển du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, Việt Nam đã có nhiều chính sách, đầu tư thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001-2010 đã kết thúc, được đánh giá thành công với kết quả tăng trưởng ấn tượng về lượng. Bằng những tài nguyên du lịch vốn có của mình, Việt Nam đã thu hút rất nhiều du khách quốc tế đến tham quan, trải nghiệm và tìm hiểu. Doanh thu từ lượng du khách quốc tế đến Việt Nam đã đóng góp đáng kể cho nền kinh tế.

Vượt qua cơn khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu năm 2009, Việt Nam trở lại đà tăng trưởng về doanh thu du lịch từ lượng khách quốc tế, trong đó khách du lịch Châu Âu đóng góp khoảng 40% doanh thu. Năm 2010 là một năm với nhiều sự kiện quốc gia như Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Việt Nam tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN và nhiều di sản văn hóa được UNESCO công nhận. Do đó, lượng du khách quốc tế đến Việt Nam tăng vọt nên doanh thu cũng tăng trưởng 45,9%, đạt mức doanh thu 120,5 tỷ VND. Sang đến năm 2012 và 2013, doanh thu từ lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam lần lượt đạt 151 tỷ VND và 155 tỷ VND, ứng với mức tăng trưởng 17,4% và 13,6%.

Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch này thu hút sự tham gia của các ngành kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập, việc làm cho các cộng đồng dân cư địa phương.

Mời bạn tham khảo thêm:

Tổng hợp bài mẫu Luận văn Thạc Sĩ

2.3. Thực trạng hoạt động marketing mix trong du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2010-2015 ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

  • Định vị hình ảnh

Định vị hình ảnh của du lịch Việt Nam chính là chọn nét đặc trưng tiêu biểu, độc đáo, hấp dẫn để du khách quốc tế   mỗi lần nghĩ đến Việt Nam sẽ liên tưởng tới hình ảnh đó.

Việt Nam sở hữu vô vàn điểm mạnh và điểm khác biệt. Đó là những khác biệt về thiên nhiên đa dạng, trù phú với bờ biển dài, núi rừng hoang sơ, hang động lớn, danh lam thắng cảnh đẹp và độc đáo nhất Châu Á…; Về văn hóa các dân tộc đa dạng, giàu truyền thống; Về các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đã được các tổ chức quốc tế công nhận và xếp hạng; Sự khác biệt về địa lý, khí hậu nhiệt đới gió mùa, bốn mùa trong năm rõ ràng; Về nền ẩm thực phong phú đa dạng, đặc trưng vùng miền và hoàn toàn khác biệt với ẩm thực trên toàn thế giới. Tất cả đó là những lợi thế cạnh tranh quan trọng, là món quà mà thiên nhiên, lịch sử đã ưu ái trao tặng cho Việt Nam.

Từ năm 2000, ngành du lịch Việt Nam đã bắt đầu xây dựng biểu tượng và tiêu đề cho các chương trình xúc tiến quảng bá với các thông điệp phản ánh giá trị cốt lõi, khác biệt nhằm định vị rõ nét hơn về du lịch Việt Nam đối với các thị trường mục tiêu. Từ năm 2006 đến năm 2011, ngành du lịch Việt Nam lấy biểu tưởng bông hoa sen, quốc hoa của Việt Nam với khẩu hiệu “Việt Nam – Vẻ đẹp tiềm ẩn”.

Biểu tượng chính thức của “Chương trình Xúc tiến du lịch quốc gia giai đoạn 2012 – 2015” được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt là hình ảnh bông hoa sen 5 cánh với tên gọi “Việt Nam – Vẻ đẹp bất tận”. Bông sen được cách điệu với 5 cánh là 5 sắc màu tượng trưng cho Du lịch Việt Nam đầy sức quyến rũ và đang tỏa hương sắc. Màu sắc của các cánh hoa gợi mở sự liên tưởng về các sản phẩm du lịch chính của Việt Nam: Màu xanh nước biển là màu chủ đạo biểu thị cho du lịch biển đảo; Màu xanh lá cây tượng trưng cho du lịch sinh thái, thiên nhiên; Màu vàng cam tượng trưng cho du lịch văn hóa, lịch sử; Màu tím tượng trưng cho du lịch khám phá, mạo hiểm; Màu hồng tượng trưng cho sự năng động, lòng hiếu khách của con người Việt Nam.

Theo các chuyên gia đánh giá và nhận định, bộ nhận diện thương hiệu lần này đã tốt hơn so với bộ thương hiệu năm 2010 (Việt Nam – vẻ đẹp tiềm ẩn). Logo mới đẹp hơn và thể hiện tốt hơn hình ảnh Việt Nam so với logo đơn giản cách điệu chữ S. Tuy nhiên phần slogan vẫn còn mơ hồ, chung chung, chưa làm nổi bật được nét đặc sắc riêng có của du lịch Việt Nam. Quá nhiều thông điệp về du lịch được gửi gắm trong một slogan ngắn gọn, đem lại nhiều sức nặng trong truyền thông. Slogan “Timeless charm” hay “vẻ đẹp bất tận” lại không thể hiện sự đa dạng trong các loại hình sản phẩm du lịch mà Việt Nam muốn cung cấp. Hơn thế nữa tính “thật” trong thông điệp cần phải được chú trọng. Hai trong số các slogan gần đây của Việt Nam đều sử dụng từ “đẹp” để truyền bá hình ảnh, từ “vẻ đẹp tiềm ẩn” tới “vẻ đẹp bất tận”, khẳng định thế mạnh về du lịch của đất nước. Tuy nhiên đi kèm với các cảnh quan thiên nhiên, bản sắc văn hóa, là cả một hệ thống chất lượng dịch vụ, hạ tầng cơ sở thật tốt để du khách tới Việt Nam thật sự phải gật gù, đúng là “vẻ đẹp bất tận”. Đó là một thương hiệu đòi hỏi chất lượng cao cấp, đặt trong bối cảnh du lịch Việt Nam hiện nay có vẻ chưa hoàn toàn phù hợp. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Chúng ta hãy điểm qua và đánh giá một số bộ nhận diện thương hiệu du lịch của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á:

Thái Lan:

Du lịch Thái Lan vẫn sử dụng logo và slogan “Amazing Thailand Always Amaze You” (Thái Lan kì diệu luôn làm bạn kinh ngạc). Thông điệp này vừa gây chú ý tò mò, vừa kích thích du khách khám phá đất nước Thái Lan. Quan trọng hơn, điều đọng lại sau khi trải nghiệm của du khách thật sự đúng là làm bạn kinh ngạc. Thay vì đổi mới logo và slogan cũ thì du lịch Thái Lan chọn cách quảng bá bằng các chiến dịch đặc biệt. Miracle Year là một ví dụ điển hình trong chiến dịch của ngành du lịch đất nước chùa vàng năm 2015. Phông chữ THAILAND sử dụng cũng rất tuyệt vời, bất kỳ lúc nào nhìn thấy bạn cũng sẽ liên tưởng tới đất nước này.

Malaysia:

Những năm qua, du lịch Malaysia có những bước tiến vô cùng vững chắc. Chẳng những là điểm đến lí tưởng của nhiều du khách mà nước này còn được Diễn dàn Kinh tế Du lịch thế giới xếp thứ 2 (sau Singapore) trong bảng xếp hạng các quốc gia có môi trường tốt nhất để phát triển du lịch và lữ hành ở Đông Nam Á. Chính vì lí do này mà đến nay, Malaysia vẫn tiếp tục giữ nguyên biểu tượng và khẩu hiệu quảng bá du lịch cũ: “Malaysia: Truly Asia” (Malaysia: Một châu Á đích thực). Thông điệp này thể hiện đúng bản chất văn hóa đa dạng, đa sắc tộc, đa tôn giáo của Malaysia. Logo du lịch của nước này khá đơn giản, không sử dụng nhiều màu sắc, chữ Malay được cách điệu tạo hình một mặt cười, thể hiện sự thân thiện của dân nước này. Ngắn gọn và đơn giản, nhưng bộ nhận diện thương hiệu này thể hiện được tính “thực” và rất dễ truyền thông.

Singapore:

“YourSingapore” như một lời khẳng định đất nước Singapore là dành cho bạn. Thế mạnh của du lịch Singapore là mua sắm, thương mại, và điều đó thể hiện rất rõ nét trong hình ảnh các khối vuông nhiều màu sắc, giống như các túi hàng khi đi mua hàng trong siêu thị. Quốc gia này cũng khéo léo lồng ghép thông điệp của mình đồng thời quảng bá luôn website YourSingapore.com trên thương hiệu du lịch. Đây rõ ràng là một thông điệp truyền thông hiệu quả, nhất quán trong chiến lược phát triển du lịch của Singapore.

Indonesia

Là một trong những quốc gia đầu tư rất mạnh về du lịch thời gian gần đây, tuy nhiên bộ nhận diện thương hiệu du lịch của Indonesia không thật sự xuất sắc. Giống như khẩu hiệu của Việt Nam, Wonderful Indonesia (Indonesia tuyệt vời), là một cái gì đó rất chung chung, không thể hiện được bản sắc, tính riêng có của nước này. Logo nhiều sắc màu và cách điệu hình ảnh loài chim, thể hiện sự đa dạng sinh học, thế mạnh trong du lịch sinh thái của Indonesia.

Philippines

Philippines đang nổi lên như một quốc gia có tiềm năng cạnh tranh du lịch ở Đông Nam Á. Từ bài học kinh nghiệm rút ra được từ slogan cũ, Bộ Du lịch Philippines đã vô cùng cẩn trọng khi sáng tạo nên một khẩu hiệu mới. Sau thời gian dài bàn thảo, cuối cùng “It’s More Fun In The Philippines” (Nhiều niềm vui hơn ở Philippines) đã được chọn. Thông điệp này dù chưa xuất sắc nhưng cũng thể hiện được mục tiêu mà du lịch đất nước này hướng tới. Tuy nhiên phần logo thực sự không làm tốt vai trò truyền thông khi thể hiện một khối vuông nhiều vạch màu sắc rất khó hiểu và không ăn nhập với thông điệp bên cạnh đó. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Như vậy, so sánh với các quốc gia trong Đông Nam Á, bộ nhận diện thương hiệu du lịch của Việt Nam không quá xuất sắc, cũng không quá tồi (tương tự như Indonesia). Vấn đề đặt ra là cần có những giải pháp để truyền thông thật tốt thông điệp mà Việt Nam gửi gắm, để du khách có thể hiểu và cảm nhận những nét đẹp trong du lịch Việt Nam, trải nghiệm những cảm xúc đặc biệt chỉ có khi tới Việt Nam.

Việt Nam cũng tiến hành chọn năm du lịch quốc gia, với mỗi năm là một chủ đề tiêu biểu, tập trung vào các thế mạnh về thắng cảnh, văn hóa Việt Nam để giới thiệu, quảng bá với bạn bè năm châu.

Có thể thấy, du lịch Việt Nam mới chỉ bước đầu đề ra các tiêu chí định vị đối với các sản phẩm du lịch hấp dẫn của Việt Nam. Việc lựa chọn điểm mạnh, điểm khác biệt gần như duy nhất của mình mà đối thủ cạnh tranh không có hoặc rất khó bắt chước là điều không đơn giản. Điểm mạnh đó, quan trọng hơn, là phải được khách hàng mục tiêu đánh giá cao và sẵn sàng mong muốn được trải nghiệm.

Hiện trạng định vị của du lịch Việt Nam chính là: có quá nhiều điểm mạnh, điểm khác biệt, nhưng định vị không sắc nét, không tạo được dấu ấn trong tâm trí du khách quốc tế. Do đó, sử dụng điểm mạnh nào, vào thời điểm nào để tạo điểm nhấn là cả một vấn đề quan trọng trong chiến lược marketing du lịch nhằm thu hút du khách quốc tế đến Việt Nam.

  • Sản phẩm du lịch

Các sản phẩm du lịch chính của Việt Nam hiện nay bao gồm:

  • Du lịch biển đảo;
  • Du lịch sinh thái, thiên nhiên;
  • Du lịch văn hóa, lịch sử;
  • Du lịch thành phố.

Thực trạng về sản phẩm du lịch của Việt Nam đã được đề cập đến trong “Chiến lược marketing cho du lịch Việt Nam đến năm 2020” của Tổng cục Du lịch – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trong văn bản này, những hạn chế của sản phẩm du lịch của Việt Nam hiện nay đã được Vụ Thị trường Du lịch nghiên cứu và đưa ra như sau:

Sản phẩm du lịch Việt Nam chậm đổi mới, thiếu đặc sắc, sáng tạo và còn trùng lặp giữa các vùng miền. Ví dụ: các bãi biển ở miền Bắc như Cửa Lò, Đồ Sơn, Sầm Sơn,… chưa có sự khác biệt về phương thức khai thác du lịch so với các bãi biển miền Trung như biển Cửa Đại, Mỹ Khê,… Trong khi đó, những quốc gia hạn chế về biển như Thái Lan, họ tập trung phát triển các dịch vụ xung quanh như thể thao dưới nước: ca nô, lướt sóng, đi dù lượn, lặn, khám phá các đảo… tạo nên sức hấp dẫn của các điểm đến.

Việc phát triển sản phẩm du lịch chủ yếu mới dừng lại ở việc khai thác các tài nguyên du lịch và khai thác yếu tố sẵn có của các địa phương và điểm đến, chưa chú trọng vào đầu tư xây dựng các sản phẩm du lịch bổ trợ như dịch vụ mua sắm, các hoạt động vui chơi giải trí ban ngày – ban đêm, các hoạt động thể thao biển hoặc du lịch cộng đồng… Các sản phẩm bổ trợ sẽ làm tăng trải nghiệm của du khách tại điểm đến, kéo dài thời gian lưu trú. Gần đây, trong một cuộc phỏng vấn, các du khách Tây Âu phàn nàn rằng khi tới các thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, về đêm họ chỉ có đi uống bia, tụ tập ăn uống hoặc đi ngủ, thiếu các chỗ vui chơi giải trí dù họ rất thích không khí và con người nơi đây. Trong khi đó, nếu ở các thành phố của Thái Lan gần như không ngủ, họ sẽ có thể đi mua sắm tại khu thương mại sầm uất, tham gia các chương trình giải trí hấp dẫn.

Các sản phẩm du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu về mức độ trải nghiệm du lịch, chất lượng sản phẩm chưa cao, nhiều sản phẩm du lịch có tốc độ suy giảm nhanh. Ví dụ như ở một số khu di tích lịch sử, các công trình văn hóa như đền chùa do tác động của thời gian, thời tiết và con người đã khiến chất lượng của một số công trình bị giảm sút, gây nên sự mất thiện cảm của du khách khi ghé thăm. Công tác trùng tu, bảo dưỡng cũng không được thực hiện đúng quy trình, không đảm bảo các nguyên tắc, tuân thủ thiết kế công trình. Một số di tích như thánh địa Mỹ Sơn, do không nghiên cứu kỹ về địa chất cũng như kết cấu vật liệu, những phần được trùng tu thậm chí còn xuống cấp nhanh hơn cả những phần đã xây dựng từ hàng trăm năm trước.

Việc đầu tư cho sản phẩm chưa có chiều sâu, thiếu những sản phẩm có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. Ví dụ: quốc gia láng giềng Trung Quốc có sự tương đồng về văn hóa với Việt Nam nhưng sản phẩm du lịch của họ lại vô cùng đa dạng. Có thể kể đến những địa điểm du lịch độc đáo mới lạ và có tính cạnh tranh mang tầm quốc tế của Trung Quốc, như Sân vận động Tổ Chim ở thủ đô Bắc Kinh, hồ Bán Nguyệt giữa sa mạc Gobi,… Thái Lan xây dựng cả một công viên bách thú Safari với đủ chủng loại loài thú quý hiếm, đồng thời kết hợp biểu diễn các tiết mục như xiếc thú, trò chơi tàu cao tốc chạy quanh công viên, biểu diễn các nét văn hóa dân tộc bản địa Malaysia có cao nguyên Gentting, Singapore có Sentosa,… Nhìn lại Việt Nam chưa kết nối các sản phẩm du lịch tạo thành một chu trình khép kín, tăng trải nghiệm cho du khách. Các sản phẩm của chúng ta rời rạc, không hấp dẫn và ở cách xa nhau, điều đó gây hạn chế rất nhiều trong việc kích thích du khách sử dụng sản phẩm dịch vụ du lịch gia tăng.

  • Giá

Hiện nay bài toán về giá đang là một vấn đề lớn của du lịch Việt Nam. Giá cả của các dịch vụ du lịch ở Việt Nam mặc dù nằm ở mức thấp nhưng lại thiếu sự quản lý chặt chẽ. Sự buông lỏng quản lý về giá cả làm tình trạng nâng giá đối với khách du lịch nước ngoài diễn ra rất phổ biến. Theo một cuộc khảo sát của tổ chức du lịch Vietravel, 34,32% du khách được hỏi đều cho rằng giá của các cơ sở lưu trú ở thủ đô Hà Nội là rất đắt so với các các thủ đô khác trong khu vực. Không có thống kê chính thức nhưng theo tổng hợp từ cổng thông tin của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội, vào mùa cao điểm, giá nhà nghỉ, khách sạn ở Hà Nội thường được tự ý nâng lên từ 50 – 100% so với giá niêm yết. Là thủ đô, cũng là nơi có nhiều dịch vụ du lịch văn hóa lịch sử và thu hút số lượng lớn du khách quốc tế, việc nâng giá tùy tiện này đã để lại ấn tượng rất xấu đối với du khách. Hay như nạn “chặt chém” giá ở khu du lịch biển Sầm Sơn (Thanh Hóa), du khách du lịch địa phương cũng như quốc tế đều cảm thấy ngán ngẩm bởi những chiêu nâng giá một cách vô lý của người dân kinh doanh ở nơi đây như việc bị thu tiền khi ngồi ghế dù không ăn uống gì của cửa hàng, họ tự gọi đó là “phí dịch vụ”. Điều đó đã cho thấy sự yếu kém trong việc quản lý giá cả của các địa điểm du lịch ở Việt Nam.

Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, giá tour, phòng nghỉ ở Việt Nam là khá cao so với Philippines, Campuchia, Malaysia,… Giá phòng khách sạn cao cấp ở các nước Thái Lan, Malaysia thấp hơn giá phòng khách sạn cùng hạng ở Việt Nam tới 20 – 30%.

Bên cạnh đó, cùng một chương trình tour, cùng một chất lượng dịch vụ đăng ký nhưng mỗi nhà cung cấp lại giới thiệu một loại giá khác nhau. Điều này dẫn tới việc du khách có cảm giác không biết đâu là thật, đâu là giả. Nguyên nhân này ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định mua và quyết định đặt lòng tin của du khách, tạo hình ảnh không chuyên nghiệp của du lịch Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Hiện tại ở Việt Nam vẫn chưa có chính sách giá cụ thể cho từng phân khúc khách hàng khác nhau mà chỉ có chính sách giá chung cho tất cả đối tượng khách hàng. Một số khu du lịch lớn thu hút du khách với nhiều loại hình du lịch đa dạng đang bị khai thác ở mức giá tầm trung như Hạ Long, Nha Trang, Phú Quốc,… Hầu hết các dịch vụ du lịch ở đây đều không có sự phân biệt về mức giá, đối tượng khách, trong khi hoàn toàn có thể phân tách hình thức du lịch cao cấp theo khu vực, theo đối tượng khách du lịch, theo loại hình du lịch.

Tuy nhiên, ở một vài nơi có bờ biển đẹp như Đà Nẵng, Bình Thuận, Quảng Ninh, Hải Phòng,…, việc cung cấp dịch vụ du lịch, mức giá phòng khách sạn lại đang được phân loại một cách tự phát. Những bãi biển thoải, đẹp thường được sở hữu hoặc thuê bởi các khu nghỉ dưỡng, resort, khách sạn cao cấp. Du khách được ở những phòng hạng sang đầy đủ tiện nghi kèm dịch vụ trong khách sạn, có tầm nhìn đẹp, khoảng cách từ nơi nghỉ xuống biển ngắn, thậm chí nằm riêng trong khu nghỉ dưỡng mà những du khách khác không có cơ hội thưởng thức. Trong khi đó, một loạt khách sạn hạng nhỏ, tầm trung không có bãi biển riêng, nằm sâu trong khu dân cư, du khách chỉ phải trả một chi phí thuê phòng rẻ và dịch vụ khách sạn tất nhiên không đầy đủ, cũng như chất lượng phòng thấp. Du khách muốn ra biển sẽ cần thuê xe để di chuyển từ nơi nghỉ đến khu vực bãi biển để tắm biển hay ngắm cảnh, đi tới các bar, khu vực giải trí trung tâm. Đây là cách phân loại giá linh hoạt cần được quản lý tốt hơn để đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ cũng như tận hưởng giá trị dịch vụ du lịch của khách hàng mục tiêu.

  • Các hoạt động xúc tiến hỗn hợp

Chương trình xúc tiến:

Trong những năm qua, công tác xúc tiến quảng bá của ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng ghi nhận. Thông qua “Chương trình Hành động quốc gia về Du lịch” hai giai đoạn 2000 – 2005 và 2006 – 2010; “Chương trình Xúc tiến du lịch quốc gia giai đoạn 2009 – 2012”, hoạt động xúc tiến du lịch được triển khai đã góp phần đưa vị thế, hình ảnh của du lịch Việt Nam lên một bước mới, tạo sức hấp dẫn đối với khách du lịch quốc tế và các nhà đầu tư, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển của ngành.

Ngân sách cho quảng bá xúc tiến du lịch Việt Nam hiện nay còn khá hạn hẹp. Những năm gần đây, kinh phí xúc tiến du lịch hàng năm từ ngân sách nhà nước mới đạt mức 30 – 40 tỷ đồng. Con số này còn rất khiêm tốn so với yêu cầu thực tế và với các nước trong khu vực. Kinh phí hạn hẹp đã hạn chế tính chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả của hoạt động xúc tiến du lịch. Mặt khác, khoản kinh phí này còn bị phân tán và triển khai đồng loạt nhiều nhiệm vụ, do đó chưa tạo thành động lực mang tính đột phá làm thay đổi căn bản hoạt động xúc tiến du lịch. Nguồn kinh phí không dồi dào cũng đã hạn chế khả năng sử dụng, khai thác các hình thức, công cụ xúc tiến du lịch phổ biến và hiệu quả trên thế giới.

Trong hoàn cảnh kinh phí eo hẹp, đầu tư và quản lý kinh phí không hiệu quả cũng gây lãng phí lớn mà không đem lại nhiều lợi ích. Ví dụ như tại Hội chợ Expo Milan 2015 tổ chức tại Italia, chúng ta đã xây dựng một “Ngôi nhà Việt Nam” bằng tre, đi cùng với nó là những vật dụng lưu niệm tượng trưng cho Việt Nam như: nón lá, áo dài,… Kinh phí thực hiện cho toàn bộ hoạt động này là 3 triệu USD, bằng toàn bộ kinh phí xúc tiến cả một năm của Việt Nam. Tuy nhiên theo quan sát, chương trình này thất bại hoàn toàn về nội dung, sản phẩm nghèo nàn, không sáng tạo và hoàn toàn dưới chuẩn của Ban tổ chức Expo Milan. Không chỉ lãng phí tiền bạc, Việt Nam còn bỏ lỡ một cơ hội giới thiệu du lịch, gây ấn tượng trong mắt quốc tế vì hội chợ này thu hút khoảng 20 triệu lượt khách tham quan.

Nhìn sang đất nước Thái Lan đầu tư gần 100 triệu USD cho quảng bá và xúc tiến du lịch, 30 cơ quan đại diện ở nước ngoài có thể thấy sự chênh lệch là rất lớn. Các hoạt động xúc tiến của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực nhà nước, trong khi doanh nghiệp tư nhân còn rất thiếu kinh nghiệm đối với thị trường quốc tế. Hoạt động xúc tiến còn chậm đổi mới, sáng tạo, chủ yếu tổ chức các đoàn fam / press trip trong xúc tiến du lịch.

  • Quan hệ công chúng và tuyên truyền

Thời gian gần đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có những động thái thường xuyên trong các hoạt động tuyên truyền như: lựa chọn Đại sứ du lịch để quảng bá, hoạt động công chúng, truyền thông, báo chí, nghệ thuật, nhiếp ảnh.

Cụ thể, năm 2011-2012, nữ diễn viên Lý Nhã Kỳ được chọn làm Đại sứ du lịch, mang hình ảnh du lịch Việt Nam quảng bá ra thế giới. Sở hữu nét đẹp đằm thắm và vốn ngoại ngữ tốt, Lý Nhã Kỳ phần nào đã thu hút được sự chú ý và làm tròn vai trò của một Đại sứ. Tuy nhiên Việt Nam không có các chương trình đào tạo Đại sứ, hình ảnh công chúng bài bản, chuyên nghiệp, đã khiến cho những scandal, những bài báo PR không đúng chỗ… làm méo mó hình ảnh của một Đại sứ du lịch. Kể từ sau Lý Nhã Kỳ, chưa có ai đảm nhận vai trò Đại sứ của du lịch Việt Nam. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Năm 2012, Việt Nam đã tổ chức chương trình truyền hình “Ấn tượng Việt Nam” nhằm tuyên truyền, quảng bá những hình ảnh đẹp, những nét đặc sắc về văn hóa, xã hội, con người từng vùng miền của Việt Nam, và giới thiệu đến khán giả những kiến thức, kỹ năng, văn hóa du lịch, góp phần kích cầu du lịch Việt Nam. Hiện nay, ngành du lịch Việt Nam cũng đang đẩy mạnh việc cung cấp thông tin du lịch lịch tại các quầy thông tin tại sân bay và các ki-ốt thông tin du lịch,…

Hoạt động PR phổ biến nhất của du lịch Việt Nam nhằm tăng hiệu quả kích cầu du lịch chính là hội trợ triển lãm du lịch, bên cạnh đó là các hoạt động liên hoan du lịch, tổ chức lễ hội du lịch Việt Nam tại các thị trường chủ chốt.

Hiệp hội Du lịch Việt Nam đã tổ chức thành công Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt (tháng 4/2013); tổ chức đoàn của Cục Xúc tiến du lịch tham gia Hội trợ Du lịch quốc tế JATA và Lễ hội Việt Nam tại Tokyo, Nhật Bản (tháng 9/2013);…

Trong năm 2014 và 2015, Việt Nam cũng đã tổ chức và tham gia nhiều hoạt động xúc tiến du lịch đáng chú ý: tổ chức Chương trình xúc tiến du lịch golf tại Hàn Quốc (quý III/2014); tổ chức Hội thảo thúc đẩy phát triển du lịch tại thị trường Nga (quý IV/2014); tham gia Hội chợ TTM – PLUS tại Thái Lan (tháng 6/2014); tham gia Hội trợ ITB Asia – Singapore (tháng 10/2014); Cục Mỹ Thuật – Nhiếp ảnh – Triển Lãm tổ chức truyền thông thương hiệu du lịch Việt Nam dưới hình thức tổ chức triển lãm trưng bày, giới thiệu các tác phẩm sơn mài truyền thống và một số sản phẩm du lịch làng nghề truyền thống về sơn mài của Việt Nam tại Vương quốc Anh,…

Việc tổ chức cũng như tham gia thường xuyên các hội trợ triển lãm du lịch ở nước ngoài là một cách thức hiệu quả nhằm tăng cường sự quan tâm của khách hàng quốc tế. Xét trên tổng thể, các hoạt động tuyên truyền và quan hệ công chúng hiện tại vẫn đang tập trung vào việc phát triển độ phủ của hình ảnh du lịch Việt Nam ra các nước chứ chưa chú trọng đến các thị trường du lịch mục tiêu, với đối tượng là các khách du lịch quốc tế. Để hoạt động PR trong du lịch đạt hiệu quả rõ nét hơn, cần có sự cộng tác chặt chẽ giữa các cấp các ngành, giữa Tổng cục Du lịch với các doanh nghiệp lữ hành trong cả nước để phát huy hiệu quả các công cụ khuyến mại thu hút khách hàng.

  • Marketing online

Trong thời đại công nghệ phát triển hiện nay, marketing online thực sự là một kênh hiệu quả đối với các ngành, đặc biệt là du lịch. Tuy nhiên đây lại là điểm yếu nhất của ngành du lịch Việt Nam khi hoàn toàn chưa chú trọng tới vấn đề quảng bá trên mạng internet.

Các số liệu thống kê cho thấy, lượng tìm kiếm thông tin về du lịch Singapore là cao nhất, xếp ngay sau đó là Malaysia và Thái Lan. Đây đều là những nước rất mạnh về hoạt động marketing du lịch. Tỷ lệ tìm kiếm thông

tin về du lịch Việt Nam là rất thấp khi so với 3 quốc gia này.

Theo Alexa.com – website đánh giá về mức độ phổ biến của các trang web trên internet thì vị trí xếp hạng của website du lịch Việt Nam còn kém xa so với các đối thủ cạnh tranh.

Có thể nhận thấy rõ mức độ chênh lệch về kết quả truy cập tới cổng thông tin du lịch trên internet của Việt Nam kém xa Singapore, Malaysia và Thái Lan. Trong bối cảnh ngày càng có nhiều người sử dụng internet như là công cụ tra cứu đầu tiên khi lên kế hoạch cho chuyến du lịch của mình, việc không tận dụng được lợi thế của mạng internet gây bất lợi lớn cho du lịch Việt Nam. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Trang web vietnamtourism.com hiện nay cung cấp khá nhiều thông tin như các sự kiện, khách sạn, các công ty du lịch, các tour tuyến, di sản thế giới tại Việt Nam và các điểm đến, với 7 thứ ngôn ngữ khác nhau bao gồm: Anh, Việt, Pháp, Trung, Nhật, Hàn, Nga (những quốc gia có lượng khách du lịch tới Việt Nam lớn nhất hiện nay). Tuy nhiên thống kê thực tế cho thấy, lượng khách quốc tế truy cập vào Cổng thông tin du lịch là cực ít, và 78% lượt truy cập là người Việt Nam. Nội dung trong website của cổng thông tin du lịch Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách. Trang web này mới chỉ hiển thị danh sách các thông tin theo dạng báo chí chứ chưa tạo ra được cái nhìn tổng quan về đất nước và con người Việt Nam. Các bài viết về điểm du lịch trên website rất dài, trong khi không có thông tin về đường đi, giá vé, thời tiết của địa phương đó. Bên cạnh đó, những tiện ích hỗ trợ như hướng dẫn về đường đi, phương tiện đi lại, đặc điểm văn hóa và con người ở từng địa phương hầu hết rất mờ nhạt. Giao diện, màu sắc của website nhìn tổng thể không đạt sự hài hòa giữa nội dung và hình ảnh. Ngoài ra, dữ liệu chưa được lưu trữ một cách có hệ thống và khoa học khiến cho việc tìm kiếm còn gặp khó khăn, hình ảnh chưa tập trung vào một chủ đề, chất lượng hình ảnh không cao, chưa thể hiện được về thông điệp du lịch. Bên cạnh đó, thông tin không được cập nhật thường xuyên sẽ tạo thành rào cản cho du khách quốc tế khi bắt đầu tìm hiểu về Việt Nam. Như vậy công tác quảng bá của Cổng thông tin du lịch Việt Nam hiện nay rõ ràng chưa đạt hiệu quả.

Một công cụ quảng bá khác là sử dụng mạng xã hội, trào lưu nổi bật nhất của internet mà sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống cá nhân cũng như hoạt động kinh doanh, bao gồm cả hoạt động quảng bá du lịch là vô cùng sâu rộng. Du lịch Việt Nam mới chỉ có những trang mạng xã hội riêng cho từng thương hiệu của các công ty lữ hành chứ chưa có trang mạng xã hội chung cho toàn ngành du lịch. Do vậy mà thiếu đi sự cập nhật đối với nhiều khách hàng trẻ phương Tây đang coi Facebook hay Twitter là một hoạt động không thể thiếu hàng ngày. Một lần nữa, mạng xã hội chưa được các nhà quản lý du lịch Việt Nam coi là một kênh quảng bá hữu hiệu.

  • Quảng cáo

Là một trong những công cụ marketing được đánh giá là mạnh mẽ nhất, quảng cáo luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của bất cứ tổ chức nào trong việc quảng bá và xây dựng hình ảnh thương hiệu. Hàng năm, các quốc gia có thế mạnh về du lịch chi ngân sách rất lớn dành cho quảng cáo du lịch.

Nhận thức được tầm quan trọng của quảng cáo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã lên kế hoạch quảng bá du lịch Việt Nam trên một số kênh truyền hình quốc tế như CNN, BBC của Mỹ với độ phủ sóng toàn cầu. Chương trình quảng bá đầu tiên trên kênh CNN với clip 30 giây mỗi ngày trong vòng 3 tháng liên tục từ tháng 10/2007 với giá gần 300.000 USD, cuối tháng 5 đến tháng 7/2009, kênh BBC TV đã giới thiệu hình ảnh Việt Nam trong 8 tuần ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và 6 tuần ở châu Âu, Bắc Mỹ với tổng cộng 429 lần phát sóng. Tổng giá trị hợp đồng quảng cáo vào khoảng 200.000 USD. Đầu năm 2008, kênh truyền hình chuyên về thời trang FTV (Pháp) cũng phát sóng giới thiệu du lịch Việt Nam. Nội dung quảng bá du lịch Việt Nam với điểm nhấn là du lịch biển, vịnh Hạ Long với độ dài clip khoảng 15 giây chiếu liên tục 6 lần/ngày trong hai tuần liên tiếp. Cục Hợp tác quốc tế thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện tiếp đợt 2 vào quý 3 và 4 năm 2010 trị giá 5,3 tỉ đồng. Tiếp đến tháng 5/2011, 4 bộ phim tài liệu về Việt Nam chính thức lên sóng kênh Discovery khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Tuy vậy theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả đạt được về mặt quảng cáo chưa cao. Chưa có con số thống kê chính thức, nhưng một số ý kiến cho rằng việc lựa chọn quảng cáo trên 2 kênh truyền hình CNN và BBC tuy có độ phủ sóng cao nhưng người xem chủ yếu quan tâm tới vấn đề kinh tế chính trị, vì vậy quảng cáo về du lịch trên các kênh đó không đạt hiệu quả Hơn nữa, Việt Nam tập trung quảng cáo trong một thời gian ngắn, thiếu sự “nhắc lại” để người xem ghi nhớ hình ảnh trong trí óc. Các đoạn clip quảng cáo của Việt Nam chủ yếu giới thiệu các danh lam thắng cảnh, lịch sử văn hóa, nhưng không đem lại thông điệp gì đặc biệt để người xem cảm nhận. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Trái ngược với Việt Nam, Thái Lan và Malaysia lựa chọn kênh thể thao là ESPN và Starsport (nay thuộc bản quyền FOX Sport) để quảng bá về văn hóa và du lịch với tần suất cực lớn. Những người xem thể thao, đặc biệt là các nước phương Tây vốn ưa du lịch và mạo hiểm, vì vậy họ đã đánh đúng vào tâm lý du khách nước ngoài, đặt trọng tâm quảng cáo với tuần suất cao, hình ảnh cực kỳ thân thiện và gần gũi, dễ in sâu vào tâm trí khách hàng. Thái Lan định vị hình ảnh du lịch của mình với khẩu hiệu “Smooth as silk” (Mềm như lụa) trong khi Malaysia lựa chọn khẩu hiệu “Truly Asia” (Châu Á đích thực) kèm theo một bài hát với giai điệu nhẹ nhàng, trong đó liên tục nhắc về khẩu hiệu của nước họ.

Gần đây, sự kiện khám phá hang động thiên nhiên lớn và hoang sơ nhất thế giới – Sơn Đoòng thuộc quần thể hang động Phong Nha – Kẻ Bàng đã được kênh truyền hình abc của Mỹ phát sóng vào bản tin sáng. Đoạn phim dài khoảng 15 phút với nhiều hình ảnh ấn tượng về hang động tự nhiên của Việt Nam đã gây tiếng vang lớn trên thế giới, khiến lượng du khách đặt tour khám phá tăng chóng mặt, thậm chí đã kín chỗ trong vòng 02 năm tiếp theo. Rõ ràng việc lựa chọn hình ảnh tiêu biểu, thị trường mục tiêu, thời gian và đối tượng quảng cáo là vô cùng quan trọng, và điều này vẫn là điểm yếu trong marketing du lịch của Việt Nam.

  • Con người

Con người luôn là nhân tố quyết định trong mọi chiến lược, mọi kế hoạch marketing, là nhân tố tạo ra dịch vụ và quyết định tới chất lượng dịch vụ cung ứng. Để tạo nên chất lượng dịch vụ tốt, ngành du lịch cần có nguồn nhân lực có trình độ, có năng lực để triển khai các chiến lược mà ngành đã đặt ra.

Nhu cầu về lực lượng lao động của ngành du lịch tăng lên đáng kể. Cùng với sự phát triển chung của ngành, lực lượng lao động du lịch cũng ngày càng phát triển, thể hiện ở việc số lượng lao động của ngành du lịch đang có xu hướng gia tăng tỷ lệ thuận với nhịp độ tăng trưởng của ngành. Nếu như thời điểm năm 2008, toàn ngành có 834.096 lao động thì đến năm 2013, lực lượng này đã tăng lên mức hơn một triệu lao động, thể hiện mức độ tăng trưởng rất mạnh mẽ.

Qua bảng trên, phân theo trình độ đào tạo thì cơ cấu nhóm lao động có trình độ chuyên môn cao như trình độ trên đại học năm 2013 chỉ chiếm 2,4%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm lao động có trình độ dưới sơ cấp lên đến 42,0%. Phân theo loại lao động thì đội ngũ quản lý chỉ chiếm 12,9%, phần còn lại là lao động nghiệp vụ. Đáng kể là số lượng nhân viên phục vụ buồng, phục vụ bar, bàn,… rất lớn, cao hơn gần gấp 3 lần số lượng hướng dẫn viên du lịch. Có thể thấy trình độ và mức độ tập trung đào tạo nguồn nhân lực trong ngành du lịch của Việt Nam còn khá thấp.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đội ngũ lao động của ngành. Quy mô tuyển sinh vào ngành du lịch ngày càng tăng, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tế. Mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch bậc đại học, cao đẳng (khoảng gần 40 trường), trung học chuyên nghiệp, dạy nghề (hơn 30 trường) và nhiều trung tâm dạy nghề được hình thành và phát triển nhanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch được nâng cấp, xây dựng mới, trang bị ngày càng đồng bộ và hiện đại. Đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên – nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng đào tạo, đang tăng nhanh về số lượng, nâng dần về kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ và có trách nhiệm với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Tuy nhiên, các cơ sở đào tạo du lịch chủ yếu tập trung ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế. Nhiều địa phương có tiềm năng và điều kiện phát triển du lịch nhưng chưa có trường đào tạo du lịch, nên lực lượng lao động ngành du lịch ở đó chủ yếu là chưa được đào tạo, chất lượng thấp. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Về trình độ ngoại ngữ, xét về tổng quát, ngành du lịch Việt Nam có tỉ lệ lao động sử dụng được ít nhất một ngoại ngữ là khá cao, chiếm khoảng 45% tổng số lao động. Trong số đó, khoảng 40,87% biết tiếng Anh, còn lại là các ngoại ngữ khác như Pháp, Trung, Hàn, Nhật,… tập trung ở số lao động: Hướng dẫn viên du lịch, lữ hành, lễ tân, phục vụ nhà hàng. Số lao động có khả năng sử dụng hai ngoại ngữ trở lên là rất ít trong khi đây lại là đặc thù của ngành du lịch.

Chất lượng đào tạo cũng là một vấn đề đặt ra đối với ngành du lịch Việt Nam. Đặc thù của nhân lực du lịch là phải có kỹ năng nghiệp vụ để phục vụ du khách với tâm lý, nhu cầu, ngôn ngữ, văn hóa,… rất khác nhau. Những kiến thức, phong cách và kỹ năng lao động phải được du khách thừa nhận, lại phải thường xuyên thay đổi theo sự biến động của thị trường; sự thay đổi của quy trình công nghệ phục vụ; sự xuất hiện những ngành nghề mới,… Nhiều nghề cần kỹ năng tuy giản đơn, nhưng đòi hỏi quy trình khắt khe, chi tiết, có phong thái, bản sắc, ấn tượng riêng tạo ra thương hiệu của mỗi cơ sở cung cấp dịch vụ. Trong khi đó, hệ thống đào tạo ngành nghề của Việt Nam vẫn mang tính hình thức, nặng lý thuyết, chú trọng số lượng hơn chất lượng. Mặt khác, du lịch là ngành có tỷ lệ luân chuyển lao động cao, có nhiều thang nấc trong mỗi nghề, cần được đánh giá và xác định các mức kỹ năng của mỗi lao động trong từng thời điểm để bố trí hợp lý. Đây là vấn đề đặc biệt chú ý cả trong đào tạo, phát triển và sử dụng nhân lực du lịch và chỉ được giải quyết thỏa đáng nếu có sự nỗ lực cao độ trong đầu tư phát triển nguồn nhân lực du lịch đạt chuẩn và đáp ứng nhu cầu xã hội.

  • Hệ thống quản lý chất lượng dịch vụ

Lâu nay ngành du lịch Việt Nam thường đánh giá sự phát triển của mình dựa trên số lượng du khách gia tăng mà chưa chú ý đến việc tăng chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là thước đo sự phát triển bền vững của ngành du lịch, tạo nên uy tín, thương hiệu của ngành du lịch, là yếu tố để giữ chân khách hàng, tạo doanh thu cao và khiến khách hàng mong muốn quay trở lại.

Số liệu thống kê cho thấy, với khách quốc tế có đến 90% du khách lần đầu tiên đến Việt Nam, trong đó lượng khách quốc tế quay lại các điểm du lịch rất thấp, chỉ chiếm 6%. Thời gian lưu trú của khách quốc tế cũng không cao, ở Đà Nẵng và Hội An trung bình 4,5 đêm; còn ở Huế, Sa Pa và Hạ Long chỉ từ 1,5 đến 2,5 đêm. Đây quả là những con số đáng báo động cho ngành du lịch Việt Nam, chứng tỏ một hệ thống quản lý chất lượng dịch vụ còn rất yếu kém. Việc buông lỏng quản lý của các cơ quan chức năng đã dẫn đến tình trạng chèo kéo, chặt chém du khách tại các điểm du lịch. Tình trạng ô nhiễm môi trường diễn ra ở rất nhiều điểm tham quan, di tích, thắng cảnh. Ý thức giữ gìn, bảo vệ các điểm du lịch của dân địa phương rất thấp… Đối với du khách Châu Âu vốn đề cao yếu tố chất lượng, đây là điểm trừ nặng nề khiến họ không muốn quay trở lại Việt Nam. Nguy hại hơn, những du khách không hài lòng về chất lượng dịch vụ sẽ phản ánh lại với bạn bè đất nước họ, khiến những người chưa từng đến Việt Nam sẽ ngừng ý định đi du lịch Việt Nam.

Nguồn nhân lực vừa thiếu, vừa yếu cũng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng dịch vụ du lịch. Đội ngũ nhân viên không được đào tạo bài bản, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm xử lý trong những tình huống đột ngột phát sinh đã gây mất thiện cảm cho du khách, giảm chất lượng dịch vụ. Một điều đáng nói nữa là tư tưởng hớt váng của đại đa số doanh nghiệp lữ hành Việt Nam, chỉ cần khai thác khách một lần nên không coi trọng cải tiến chất lượng dịch vụ, chỉ tập trung vào các chương trình quảng bá nhằm thu hút khách hàng mới. Điều này góp phần làm cho chất lượng dịch vụ của Việt Nam trở nên yếu kém, giảm tính cạnh tranh và thất bại trong việc thu hút du khách quay trở lại Việt Nam. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Chất lượng du lịch là yếu tố then chốt quyết định việc du khách có trở lại điểm đến thêm nhiều lần nữa không. Thống kê của Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA) cho biết 40% khách quay trở lại Singapore, 45% khách đến Thái Lan lần hai dù nước này có thời điểm bất ổn về chính trị, bạo động thường xuyên. Con số này đã cho thấy sự khác biệt trong hệ thống chất lượng du lịch của các nước trong khu vực.

  • Cơ sở hạ tầng

Cơ sở lưu trú:

Từ năm 2008 đến 2014, số lượng cơ sở lưu trú và số buồng đã gia tăng nhanh chóng với mức tăng trưởng bình quân 10%/năm. Số lượng cơ sở lưu trú tăng mạnh và công suất buồng bình quân khá cao, tuy nhiên chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu lưu trú của khách du lịch, trong đó có khách nội địa và khách quốc tế. Các dịp lễ, Tết, hay nghỉ dài ngày, hoặc mùa hè,… các cơ sở lưu trú thường hoạt động hết 100% công suất, khách nếu không đặt trước từ cách đó cả tháng thường bị cháy phòng, không thể tìm bất kỳ một điểm lưu trú nào.

Theo kết quả khảo sát của Tổng cục Du lịch, khách du lịch Châu Âu thường chọn lưu trú tại khách sạn 3 sao trở lên. Tuy nhiên các khách sạn được gắn 3 sao trở lên ở Việt Nam có chất lượng không đồng đều, không theo một tiêu chuẩn cụ thể mà mạnh ai nấy làm, thiết kế, vận hành theo ý muốn của chủ đầu tư. Công tác trùng tu, bảo dưỡng cũng không được coi trọng, đa số chủ khách sạn chỉ muốn khai thác tối đa cơ sở lưu trú mà không tái đầu tư, khiến cho các cơ sở lưu trú sau một thời gian hoạt động bị xuống cấp nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, Việt Nam còn thiếu rất nhiều khách sạn tiêu chuẩn 4, 5 sao. Thống kê của Vụ Lữ hành, Tổng cục Du lịch cho thấy cả nước chỉ có 90 cái, chiếm 1% trong tổng số cơ sở lưu trú, 9% trên tổng số buồng. Điều này đã khiến cho giá phòng khách sạn cao cấp bị đẩy lên, tăng 20-45%. Giá thành cao và số lượng ít như vậy khiến cho các đoàn khách nhỏ lẻ dễ nản lòng và có những lựa chọn, so sánh với quốc gia khác khi quyết định du lịch.

  • Hạ tầng giao thông:

Do đặc thù của địa lý Việt Nam nên các tuyến giao thông nội địa chủ yếu từ đường bộ, đường sắt, đường hàng không đều theo hướng Bắc – Nam, riêng các tuyến giao thông đường thủy thì chủ yếu theo hướng Đông – Tây dựa theo các con sông lớn đều đổ từ hướng Tây ra biển.

Việt Nam có hệ thống đường bộ gồm các quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ,… có tổng chiều dài khoảng 222.000 km. Phần lớn các tuyến đường quốc lộ và tỉnh lộ đều được trải nhựa và bê tông hóa, chỉ có một số ít các tuyến đường huyện lộ tại các tỉnh vùng sâu, vùng xa đang còn là các con đường đất.

Việt Nam có 3.260 km đường bờ biển. Dự kiến quy hoạch chi tiết tuyến đường bộ ven biển Việt Nam trong tương lai là tuyến đường bắt đầu tại cảng Núi Đỏ, Mũi Ngọc (xã Bình Ngọc, huyện Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) tới cửa khẩu Hà Tiên (thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) với chiều dài khoảng 3.041 km. ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Hệ thống đường sắt Việt Nam có tổng chiều dài 2.652 km, trong đó tuyến đường chính Hà Nội – TP.HCM dài 1.726 km được gọi là tuyến Đường sắt Bắc – Nam. Ngoài ra còn có các tuyến đường sắt ngắn từ Hà Nội đi Hải Phòng (hướng Đông), Lạng Sơn (hướng Bắc), Lào Cai (hướng Tây Bắc). Việt Nam tuy có hệ thống đường sắt dài nhưng còn lạc hậu, các loại tàu đang được sử dụng hầu hết là từ mấy chục năm trước và ít có sự sửa chữa, thay thế. Do đó, chưa đáp ứng được nhu cầu vận chuyển cũng như đi lại của người dân và các khách du lịch.

Hệ thống đường hàng không Việt Nam bao gồm các sân bay quốc tế có các tuyến bay đi các nước và các sân bay nội địa trải đều ở khắp ba miền. Việt Nam hiện có 3 sân bay quốc tế là sân bay Tân Sơn Nhất (TP.HCM), sân bay Đà Nẵng (Đà Nẵng), sân bay Nội Bài (Hà Nội) và các sân bay dự kiến khai thác đường bay quốc tế trong thời gian tới là sân bay Cam Ranh (Khánh Hòa) và sân bay Phú Bài (Thừa Thiên – Huế). Điểm yếu của hàng không Việt Nam chính là có quá ít đường bay quốc tế, nhất là các tuyến bay dài so với hàng không của các nước khác trong khu vực. Bên cạnh đó các tuyến bay thẳng nội địa cũng rất hạn chế, du khách muốn đến các điểm du lịch buộc phải lựa chọn một loại phương tiện khác (ô tô, tàu hỏa,…) để di chuyển. Đây là một điểm trừ nữa của du lịch Việt Nam, với thời gian lưu trú trung bình của khách quốc tế rất ngắn, họ thường muốn tham quan nhiều nhất có thể. Việc phải thay đổi nhiều phương tiện di chuyển và tốn thời gian khiến du khách không còn hào hứng tham quan các điểm du lịch.

Giao thông ở Việt Nam là một trong những ác mộng đối với khách du lịch quốc tế vì nhiều lý do như: sự nguy hiểm khi tham gia giao thông, phương tiện bị nhồi nhét khách, thiếu an toàn, thường xuyên chậm trễ. Các phương tiện giao thông công cộng ở Việt Nam còn hạn chế. Sự quản lý còn yếu đối với các phương tiện chuyên trở tự phát gây khó khăn cho du khách khi muốn tự di chuyển. Cùng với đó, do người dân không nghiêm túc thực hiện luật an toàn giao thông đã khiến cho hệ thống giao thông Việt Nam trở nên nguy hiểm không chỉ với người dân mà còn với khách du lịch quốc tế, khiến họ có tâm lý lo ngại khi muốn đi du lịch ở Việt Nam.

2.4. Một số nguyên nhân gây hạn chế hoạt động thu hút khách Châu Âu tới Việt Nam: ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Nguyên nhân chủ quan:

  • Thiếu những nghiên cứu có tính hệ thống, bài bản, ở tầm vĩ mô về du lịch và các hoạt động marketing du lịch: Việc thiếu những nghiên cứu ở tầm vĩ mô khiến cho việc hoạch định các chiến lược, kế hoạch thường gặp khó khăn, không bám sát thực tiễn và thường không đạt hiệu quả như mong muốn.
  • Thiếu hụt về các nguồn lực: Trong đó bao gồm tài chính và con người. Kinh phí hạn hẹp dẫn tới hoạt động marketing mix không hiệu quả, chưa kể sự quản lý kém dẫn tới tình trạng lãng phí, thất thoát.
  • Thiếu sự kết nối, phối hợp giữa trung ương với địa phương, giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp, điều này làm giảm tính đồng bộ của hệ thống các hoạt động marketing

Nguyên nhân khách quan:

  • Những bất ổn của khu vực Châu Âu: khủng hoảng nợ công của Hy Lạp, đồng Rúp (Nga) mất giá hay các sự kiện tranh chấp về vấn đề Ukreina,… khiến khách du lịch Châu Âu có tâm lý lo ngại khi đi du lịch.
  • Sự phát triển của các đối thủ cạnh tranh: Thái Lan đã miễn thị thực 55 nước trên thế giới, Indonesia và Malaysia đầu tư rất mạnh về marketing hay sự nổi lên của các quốc gia như: Campuchia, Lào, Philippines,…

2.5. Kết luận chương II ( Luận văn Thực trạng Hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch )

Qua phân tích thực trạng hoạt động marketing mix của du lịch Việt Nam, có thể nhận thấy hoạt động marketing mix du lịch Việt Nam hiện nay đã có hiệu quả, bước đầu đã có những chính sách, chiến lược phát triển du lịch với tầm nhìn trung và dài hạn, nghiên cứu, định vị thị trường mục tiêu, gây dựng hình ảnh và quảng bá du lịch Việt Nam trên toàn thế giới.

Tuy nhiên du lịch Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế về sản phẩm du lịch, chiến lược xúc tiến chậm đổi mới, hay là những yếu kém về quản lý chất lượng dịch vụ, cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển, nguồn nhân lực chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay.

Để giúp ngành du lịch Việt Nam phát triển bền vững và có chiều sâu, tăng cường khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, chương III của luận văn sẽ đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện chiến lược marketing mix du lịch, nhằm đạt mục tiêu thu hút nhiều hơn nữa khách du lịch Châu Âu đến với Việt Nam.

Mời bạn tham khảo thêm:

 Luận văn Giải pháp hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Luận văn Thực trạng hoạt động marketing mix thu hút khách du lịch […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993