Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố là một bài luận văn thạc sĩ thuộc chuyên ngành Quản lý công được giáo viên đánh giá rất cao. Quản lý trật tự, an toàn đô thị là bảo đảm và duy trì sự ổn định bền vững của đô thị, bao gồm trật tự công cộng, trật tự giao thông, phòng chống cháy nổ, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống thiên tai bão lụt, đăng ký hộ khẩu, tạm vắng, tạm trú, vãng lai, v.v… Dưới đây là bản đầy đù Đề tài: Quản lý nhà nước về đô thị tại thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Nội dung chính
2.1 Khái quát chung về thành phố Quảng Ngãi
2.1.1 Vị trí địa lý
Thành phố Quảng Ngãi là thành phố trung tâm thuộc tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí nằm tiếp giáp với các vùng lân cận: phía Đông giáp Biển Đông; phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Sơn Tịnh; phía Nam và Tây Nam giáp huyện Tư Nghĩa và huyện Mộ Đức; phía Bắc giáp huyện Bình Sơn. Thành phố có hệ thống đường bộ gồm các Quốc lộ: 1A, QL 24B; tuyến đường sắt: Bắc- Nam chạy qua; tiếp cận thuận lợi với cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng- sân bay lớn nhất khu vực miền Trung và sân bay Chu Lai…
2.1.2 Đặc điểm kinh tế – xã hội
a.Về kinh tế
Trong những năm qua, nhiều thành phần kinh tế của Thành phố Quảng Ngãi đã chuyển dịch cơ cấu đầu tư, phát triển sản xuất tạo ra cơ cấu kinh tế phù hợp với nhu cầu thị trường. Năm 2017, tổng giá trị sản xuất trên địa bàn đạt gần 29 nghìn tỷ đồng, đạt 100,04% kế hoạch, tăng 11,6% so với năm 2016; chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng với dịch vụ 51,02%, công nghiệp – xây dựng 37,63% và nông lâm nghiệp, thủy sản chiếm 11,35%. Tổng giá trị gia tăng trên địa bàn thành phố đạt gần 13 nghìn tỷ đồng, đạt 100,12% kế hoạch, tăng 11,52% so với cùng kỳ năm 2016 [33].
Tính đến thời điểm này, có khoảng 88 dự án đầu tư vào các Khu Công nghiệp Quảng Ngãi với tổng vốn đầu tư gần 5.800 tỷ đồng. Riêng Khu kinh tế Dung Quất đã có 113 dự án được đầu tư với tổng vốn đăng ký trên 8,5 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt gần 5 tỷ USD. Có khu công nghiệp Quảng Phú nằm trên địa bàn thành phố, cùng với nhiều nhà máy, dự án lớn được đầu tư, điển hình như Dự án Nhà máy bia Sài Gòn – Quảng Ngãi với công suất 100 triệu lít/năm đang hoạt động hiệu quả. Thành phố còn đóng vai trò là hậu phương quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp VSIP Quảng Ngãi, giáp ranh giới phía Bắc thành phố.
b.Về xã hội
Tính năm 2016, dân số trung bình của thành phố Quảng Ngãi 253.881 người, chiếm trên 3% về diện tích và trên 20% về dân số toàn tỉnh [31]. Mật độ dân số của thành phố tập trung đông dân nhất tỉnh, bình quân với 1.645 người/km², riêng khu vực nội thành có mật độ 3.633 người/km²[32]. Sự biến đổi dân số ở thành phố Quảng Ngãi là số dân di chuyển cơ học nhiều. Dân cư sống ở các xã phía đông thành phố vẫn sống chủ yếu vào nông – ngư nghiệp.
Những năm trở lại đây, thu nhập người dân của thành phố đã được cải thiện, bình quân năm 2016 [30] ước đạt 64,2 triệu đồng, tăng 5 lần so với năm 2005. Từ năm 2013 đến nay thành phố Quảng Ngãi đã hỗ trợ các gia đình người có công cách mạng có khó khăn về nhà ở thực hiện hoàn thiện 341 nhà, trong đó xây mới 189 nhà, sửa chữa 152 nhà và hiện đang thực hiện 68 nhà [28]. Trong năm 2015, có 927 hộ thoát nghèo; giải quyết việc làm cho trên lao động. Các khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục được thành phố Quảng Ngãi đã được đáp ứng cơ bản, nhất là cấp thẻ BHYT cho người nghèo, cận nghèo và người dân sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển xã Tịnh Kỳ.
Có thể bạn quan tâm:
2.1.3 Tình hình phát triển kết cấu hạ tầng trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
2.1.3.1. Về hạ tầng xã hội
a. Nhà ở
Theo số liệu thống kê tình hình phát triển nhà ở tại thành phố Quảng Ngãi, nội thành phố có 26.758 hộ gia đình có nhà ở kiên cố, bán kiên cố với diện tích sàn 3.507.220 m2. Bình quân diện tích sàn xây dựng khu vực nội thị 26,94 m2/người.
b. Mạng lưới giáo dục và đào tạo
Cơ cấu hệ thống giáo dục phổ thông khá đồng bộ và phân bố hợp lý trên địa bàn – với 32 trường mầm non, 30 trường tiểu học, 23 trường THCS, 10 trường THPT. Trong đó 50/85 trường có nhân viên y tế; 100% số trường có công trình vệ sinh đáp ứng yêu cầu của học sinh. Đồng thời, thành phố có các trường: Đại học Phạm Văn Đồng, Phân hiệu của trường Đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh tại Quảng Ngãi, trường Cao Đẳng Công Thương TP. HCM (CN Quảng Ngãi), trường Cao đẳng Y tế Đặng Thùy Trâm Quảng Ngãi, trường Cao đẳng nghề Việt- Hàn Quảng Ngãi, trường Cao đẳng kỹ thuật công nghiệp Quảng Ngãi, Trường Trung cấp nghề tỉnh, Trường Trung cấp nghề kinh tế công nghệ Dung Quất…
c. Mạng lưới y tế
- Tuyến tỉnh gồm: Bệnh viện đa khoa tỉnh 800 giường bệnh và các bệnh viện chuyên khoa tỉnh.
- Tuyến thành phố: Có Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi (100 giường), Phòng Y tế, Trung tâm y tế dự phòng, Trung tâm dân số kế hoạch hóa gia đình, Bệnh viện đa khoa Sơn Tịnh (210 giường và bệnh viện Sơn Mỹ).
- Tuyến xã, phường: Có 23 trạm y tế xã phường. Ngoài ra còn có nhiều cơ sở khám chữa bệnh tư nhân chất lượng cao như: Bệnh viện Mắt kỹ thuật cao, Phòng Khám đa khoa Phúc Hưng (đang xây dựng để trở thành Bệnh viện đa khoa Phúc Hưng), Minh
2.1.3.2. Về hạ tầng kỹ thuật
a. Mạng lưới giao thông
Tổng diện tích đất dành cho xây dựng giao thông đô thị TP.Quảng Ngãi là 248,66 ha, chiếm 7,37 % diện tích đất xây dựng đô thị. Hệ thống giao thông đường bộ cơ bản cùng hệ thống bến, bãi đậu xe; phương tiện vận tải hành khách. Tổng các tuyến đường giao thông khu vực nội thành là 127,8km. Có 2 tuyến Quốc lộ 1A và 24B đi qua khu vực nội thành với chiều dài 32,4km. Tổng số có 120 tuyến đường đã được lát vỉa hè, tạo vẻ mỹ quan đô thị. Ngoài hệ thống đường giao thông đô thị, thành phố còn tập trung phát triển mạnh mạng lưới đường giao thông thôn, hẻm phố. Tuyến đường sắt Thống Nhất khổ 1m chạy qua thành phố có chiều dài 4 km với ga chính Quảng Ngãi. Đường thủy và đường hàng không thuận lợi: phát triển gắn với cảng nước sâu Dung Quất, sân bay Chu Lai.
b. Mạng lưới cấp – thoát nước và vệ sinh môi trường
- Hệ thống cấp nước thành phố Quảng Ngãi được cải tạo mở rộng. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Công trình cấp nước sạch: có 3 trạm cấp nước chính với tổng công suất thiết kế là 23.000 m3/ngày đêm; công suất khai thác hiện nay là 21.000 m3/ngày đêm. Tỷ lệ dân số đô thị được cấp nước khoảng 88,77%, với tiêu chuẩn cấp nước trung bình đạt: 120,5 lít/người dân/ngđ.
Thoát nước thải: với hệ thống thoát nước chung cho nước mặt và nước thải cấu tạo bằng ống bê tông cốt thép chôn ngầm, chủ yếu tập trung ở các trục đường chính khu vực trung tâm thành phố (với mật độ đường ống thoát nước chính đạt 7,04 km/km2) và một số các khu dân cư mới được hình thành (chưa có hệ thống thoát nước thải riêng). Còn lại các khu vực khác chưa có hệ thống thoát nước. Thành phố đã đầu tư xây dựng một trạm bơm cưỡng bức công suất 12.000 m3/h đã đảm bảo thu nước mặt trên địa bàn nội thành về hai hồ điều hòa, giải quyết vấn đề ngập úng nặng trong thành phố trước đây.
Nước thải khu công nghiệp Quảng Phú đã có trạm xử lý nước thải; còn các cơ sở sản xuất kinh doanh cũ hầu hết chưa qua xử lý, hoặc mới được xử lý sơ bộ trước khi xả ra các kênh, mương, sông… Nước thải bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi đã được xây dựng trạm làm sạch nước thải (công suất 600 m3/ngày), còn lại các trung tâm y tế khác chưa có hệ thống xử lý nước thải hoặc có nhưng chỉ xử lý sơ bộ trước khi xả ra môi trường.
- Quản lý chất thải rắn (CTR).
Khu chôn lấp CTR của thành phố Quảng Ngãi (cách trung tâm thành phố khoảng 13 km về phía Tây, cách khu dân cư 2 km, mới được xây dựng thuộc khu đất đồi núi xã Nghĩa Kỳ, huyện Tư Nghĩa) có quy mô xây dựng 20 ha được mở rộng từ bãi chôn lấp hiện có (10 ha). Hiện đang sử dụng 10 ha. Có khu chôn lấp hợp vệ sinh được xây dựng tháng 5/2008. Chất thải rắn sinh hoạt của thành phố do Công ty Cổ phần môi trường đô thị Quảng Ngãi đảm nhiệm thu gom và vận chuyển khoảng 141 tấn/ngày (tỷ lệ thu gom đạt trên 90%). Hiện tại công ty có 9 xe chuyên dùng có trọng tải từ 2,5 đến 10 tấn để vận chuyển CTR đến khu chôn lấp. Chất thải rắn y tế của Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi được xử lý bằng lò đốt hiện đại nhiệt độ cao hai ngăn (CS: 25-30 kg/h). Chất thải rắn của các ngành công nghiệp chính trong thành phố được công ty môi trường đô thị thu gom và vận chuyển đến bãi chôn lấp CTR của thành phố. Một số lượng nhỏ các chất thải độc hại tạo ra bởi ngành công nghiệp vẫn chưa được xử lý.
c. Mạng lưới cấp điện
Thành phố Quảng Ngãi hiện đang sử dụng nguồn điện lưới quốc gia tại trạm biến áp 110kV Núi Bút có công suất (40+25)MVA và tổ máy phát Diezel có tổng công suất lắp đặt 9,05 MW. Trạm trung gian Sơn Tịnh (2×5600) kVA cấp điện bởi đường dây 35 kV 372 trạm 110 kV Tịnh Phong. Trạm trung gian Quảng Phú (2×4000) kVA được cấp bởi đường dây 35KV 371 trạm 110 kV Núi Bút.
2.2 Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị tại thành phố Quảng Ngãi
Việc quy hoạch xây dựng thành phố Quảng Ngãi dựa trên cơ sở của Quyết định số 2116/QĐ-UBND ngày 31/12/2010 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Quảng Ngãi đến năm 20303; và Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 20/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi đến năm 20254. Đến ngày 24/9/2015, thành phố Quảng Ngãi được công nhận là đô thị loại II, gồm 23 đơn vị hành chính gồm 14 phường và 9 xã. Quy mô diện tích của Thành phố theo ranh giới hành chính hiện nay là 16.015,34ha.
2.2.1 Quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Quyết định số 258/QĐ-UBND ngày 02/06/2016 của UBND Tỉnh Quảng Ngãi về việc Ban hành quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị thành phố Quảng Ngãi. Quy chế này là cơ sở để lập nhiệm vụ quy hoạch, thiết kế đô thị đối với khu vực chưa có quy hoạch, thiết kế đô thị được duyệt; Lập thiết kế cảnh quan trong đô thị; Cấp giấy phép xây dựng mới hoặc cải tạo chỉnh trang lại các công trình kiến trúc.
Đối với khu vực đô thị hiện hữu: Chính quyền thành phố đã và đang hướng vào bảo tồn cấu trúc đô thị cũ để đảm bảo một trung tâm có bản sắc đặc trưng và đa chức năng: chính trị, hành chính, thương mại, dịch vụ, văn hoá giải trí. Điển hình, các trục Quang Trung, Lê Lợi, Phạm Văn Đồng, Phan Bội Châu, Hùng Vương được giữ ổn định về lộ giới và tính chất là các trục trung tâm thương mại, dịch vụ, hỗn hợp của đô thị như hiện nay. Tổ chức cải tạo các công trình trong các ô phố, đặc biệt là khu vực phường Nguyễn Nghiêm, Lê Hồng Phong, Trần Hưng Đạo, Trần Phú. Để hạn chế xây dựng công trình cao tầng; tại một số địa điểm.
Đối với khu vực đô thị mới:: Hiện chính quyền thành phố Quảng Ngãi đang tăng cường quản lý chất lượng công trình kiến trúc công cộng, kiến trúc cao tầng và kiến trúc trong khu vực Trung tâm đô thị mới, trung tâm khu vực, trên các trục đường quan trọng, các cửa ngõ đô thị (lập thiết kế đô thị riêng). Khuyến khích các công trình kiến trúc phát triển nén, cao tầng và đa chức năng dọc theo các trục đường chính đô thị, khuyến khích kết nối với các bến giao thông công cộng, đang từng bước hoàn thiện việc thống nhất về phong cách kiến trúc hài hòa, phù hợp với tính chất đặc thù của vùng bờ sông, bờ biển cũng như cảnh quan; khuyến khích công trình thiết kế theo hướng thân thiện với môi trường, khuyến khích sử dụng các công nghệ sạch, công nghệ sinh thái. Không sử dụng vật liệu kính quá 70% bề mặt của công trình. Nghiêm cấm sử dụng các loại vật liệu có độ phản quang lớn, gạch ốp men sứ mặt đứng của các công trình nhà cao tầng.
Đối với khu vực trung tâm hành chính – chính trị: Các quy định, yêu cầu quản lý quy hoạch, kiến trúc về chỉ giới xây dựng, mật độ xây dựng, chiều cao công trình tối đa, hình thức kiến trúc, tổ hợp công trình kiến trúc, kiến trúc công trình ở khu vực trung tâm hành chính chính trị đã được tuân thủ theo quy hoạch chi tiết. Các công trình cải tạo xây dựng mới phải phù hợp với cảnh quan chung và có hình khối bố cục kiến trúc hài hòa với công trình cũ. Khuyến khích sử dụng bố cục đối xứng tạo sự trang nghiêm cho công trình.
Đối với khu công nghiệp Quảng Phú và khu công nghiệp làng nghề Tinh Ấn Tây: Việc quản lý các công trình kiến trúc công nghiệp về cơ bản phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn, an toàn phòng chống cháy nổ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đồng thời, khuyến khích các công trình có mật độ xây dựng thấp, khoảng lùi lớn với lộ giới để tổ chức cây xanh cảnh quan vừa đề tăng cường cảnh quan trong môi trường công nghiệp (Trồng những loại cây chịu được gió, bụi, sâu bệnh, có rễ ăn sâu), vừa cách ly với các khu vực chức năng khác của đô thị theo hướng tuân thủ các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với công trình công nghiệp. Tất cả các nhà máy sản xuất công nghiệp hiện đều có trạm xử lý nước thải, phù hợp tiêu chuẩn nước thải công nghiệp. Nhất thiết các nhà máy phải có xử lý vệ sinh khói bụi, các hơi độc và các chất ô nhiễm nước thải cục bộ theo yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường…
Đối với khu vực dự trữ phát triển, an ninh quốc phòng: Với khu dự trữ phát triển, tuân thủ quy hoạch được duyệt, UBND cấp xã, phường lập kế hoạch và phương án sử dụng đất hiệu quả trong thời gian chưa triển khai xây dựng (kế hoạch sử dụng đất theo các giai đoạn phát triển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) trình thành phố phê duyệt. Các công trình phục vụ an ninh, quốc phòng được xây dựng và thực hiện trên cơ sở các quy hoạch chi tiết do Bộ Quốc phòng tổ chức lập và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Các hoạt động xây dựng, thi công của khu an ninh quốc phòng nếu có vướng mắc theo quy định chung xây dựng của đô thị cần có sự trao đổi, thỏa thuận với các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Còn các công trình xây dựng khác được quản lý tuân thủ theo quy định của quy hoạch đô thị và quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc thành phố Quảng Ngãi.
2.2.2 Quản lý nhà nước về bảo vệ cảnh quan và môi trường đô thị Về cảnh quan đô thị: ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Năm 2008, UBND thành phố Quảng Ngãi đã Ban hành Quy chế Quản lý đô thị thành phố Quảng Ngãi để thực hiện quản lý đô thị, đã góp phần làm cho diện mạo cảnh quan đô thị ngày càng ngăn nắp, trật tự, sạch, đẹp. Cải tạo chỉnh trang đô thị trên địa bàn Thành phố được thực hiện ở 04 khu: Khu dân cư Bàu Ruộng (1,01ha); Khu dân cư phía Đông đường Chu Văn An (1,1ha); Khu dân cư phường Quảng Phú (0,43ha); Khu tái định cư Trường Cao đẳng nghề Việt Nam-Hàn Quốc- Quảng Ngãi (0,81ha). Trên địa bàn thành phố có 08 khu đô thị mới đã hoàn thiện; 07 dự án khu ĐTM, khu dân cư quy mô trên 50 ha đã và đang triển khai thực hiện đầu tư xây dựng. Cụ thể là Khu đô thị Phú Mỹ, An Phú Sinh; các khu dân cư: Đê bao, Thành cổ- Núi Bút, Sơn Tịnh, Bàu Giang- Cầu mới; Khu TMDV Vina Universal Paradise.
Tỷ lệ tuyến phố văn minh đô thị/ tổng số đường chính khu vực nội thành là 27/ 36 tuyến với tổng chiều dài 33,11 km, hiện đã công nhận 18 tuyến phố trong năm 2015. Mặt khác, theo thống kê hiện nay, trên địa bàn thành phố có tổng số 143 tuyến phố, trong đó có 36 tuyến phố chính với tổng chiều dài được chiếu sáng là 49,99 km đạt 100%. Số ngõ, hẻm khu vực nội thành được chiếu sáng là 225 tuyến với tổng độ dài được chiếu sáng là 54,91 km (đạt 83,96%). Đồng thời, chính quyền thành phố hạn chế sử dụng lưới điện đường dây trên không để đảm bảo mỹ quan đô thị.
Về môi trường đô thị:
Chính quyền thành phố đã chú ý quy hoạch lộ giới kiệt kẻm (kèm theo hệ thống mương thoát nước) giải quyết thoát nước, giải quyết tình trạng ngập úng, đảm bảo cứu hộ, cứu nạn khi có sự cố xảy ra ở khu vực giữ lại chỉnh trang. Ở các khu dân cư, nước thải sinh hoạt từ nhà dân và các công trình công cộng chủ chủ yếu là được thu gom và xử lý cơ bản bằng hệ thống bể tự hoại có ngăn lắng, lọc trước khi cho tự chảy vào hệ thống thoát nước chung của thành phố. Theo tính toán sơ bộ của thành phố, lượng nước thải đã được xử lý khoảng 55%. Thành phố đã đầu tư xây dựng một trạm bơm cưỡng bức công suất 12.000m3/h, thay đổi mục đích sử dụng hai hồ, ao thành hồ điều hòa. Khi mưa lớn, trạm bơm này hoạt động chỉ với 50% công suất thiết kế là đã cơ bản đảm bảo thu nước mặt trên địa bàn nội thành về hai hồ điều hòa, giải quyết hoàn toàn được vấn đề ngập úng nặng trong thành phố trước đây.
Tại một số khu đô thị mới đang triển khai xây dựng trên địa bàn thành phố đã xây dựng các trạm xử lý nước thải sinh hoạt cho khu đô thị. Thành phố đã nghiên cứu phương pháp mới trong xử lý nước thải sinh hoạt bằng cây thủy sinh và áp dụng phương pháp này, nuôi bèo tây – lục bình (1ha mặt nước thả bèo tây có thể làm sạch đến 3 tấn nước thải mỗi ngày: nó có thể hút được 34kg Na, 22kg Ca, 17 kg P, 4kg Mn, 2,1kg Phenol, 89g Hg, 104g Al, 297g kiềm, 321g Stronti,…trong 24 giờ) trên hai mặt hồ điều hòa.
Trên địa bàn thành phố có 27 cơ sở sản xuất có trạm xử lý nước thải đảm bảo các quy định về xử lý nước thải, lượng nước thải được xử lý đạt trên 80% (Bảng 1).
2.2.3 Quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Về Đất đai đô thị:
Chính quyền thành phố đã chỉ đạo căn bản việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai, hệ thống dịch vụ đất đai. Từ năm 2005, công tác kiểm kê toàn diện về đất đai và xây dựng bản đồ bản đồ hiện trạng sử dụng đất được tiến hành hàng năm trên cơ sở của pháp luật đất đai được phòng Tài nguyên môi trường của Thành phố tổ chức thực hiện theo quy định của Chính phủ và UBND Tỉnh. Phòng tổ chức tập huấn hướng dẫn thực hiện kiểm kê và thống kê cho các cán bộ địa chính xã phường để đảm bảo chất lượng công tác. Quy trình thực hiện cũng được giám sát chặt chẽ và có rút kinh nghiệm thường xuyên.
Công tác thực hiện và điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch SDĐ ở thành phố được chú trọng, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích. Đã hoàn thành Quy hoạch SDĐ đến năm 2020 và Kế hoạch SDĐ 5 năm (2011 – 2015), gửi Sở Tài nguyên và Môi trường thẩm định. Trong năm 2013 đã phê duyệt 36 phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án với tổng kinh phí bồi thường hơn 138 tỷ đồng, với diện tích thu hồi 47,361 ha. Thông báo thu hồi đất để triển khai thực hiện 16 dự án, với tổng diện tích 128,13 ha. Ban hành 539 Quyết định thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân để thực hiện 25 dự án, với tổng diện tích 67.055,36 m2; ban hành 132 quyết định giao đất và cấp 241 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện tái định cư các dự án có đất thu hồi, cán bộ điều động, đối tượng chính sách, hộ nghèo, các cá nhân trúng đấu giá quyền sử dụng đất, với tổng diện tích 27.179,75 m2. Trình UBND tỉnh đề nghị thu hồi, giao đất để thực hiện 16 dự án, với tổng diện tích 147.258 m2. Mặt khác, việc triển khai các dự án tái định cư trên địa bàn thành phố được tiến hành khá thường xuyên. Đến nay, đa số các dự án trên địa bàn thành phố đã được triển khai, góp phần giải quyết nhu cầu an sinh xã hội, phát triển kinh tế và đô thị hóa.
Triển khai thí điểm Đề án cấp giấy CNQSDĐ tại thôn, tổ dân phố tại các xã, phường. Đã tiếp nhận và giải quyết 5.439/7.626 hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, chuyển mục đích sử dụng đất đủ điều kiện. Trong đó, cấp giấy CNQSDĐ lần đầu và GCNQSHN là 673 giấy – 20,97 ha; so với chỉ tiêu giao đạt 111,31% (20,97ha/18,84ha). Trả lại cho công dân 948 hồ sơ không đủ điều kiện. Đang giải quyết 1.239 hồ sơ. Thành phố cơ bản đã hoàn thành việc cấp giấy CNQSDĐ lần đầu, đạt 94,8% so với tổng diện tích đất cần cấp theo mục tiêu đề ra của Chương trình Hành động số 48 – CTr/TU ngày 03/5/2013 của Thường trực Thành ủy.
Về nhà ở: Diện tích sàn nhà ở bình quân cho khu vực nội thành Thành phố Quảng Ngãi là 26,94 m2 sàn/người. Tỷ lệ nhà kiên cố, khá kiên cố, bán kiên cố cho khu vực nội thành Thành phố Quảng Ngãi là 92,51%. Trong đó:
+ Tổng số hộ có nhà ở trên địa bàn khu vực nội thành là 28.925 nhà.
+ Tổng số hộ có nhà ở kiên cố, khá kiên cố, bán kiên cố của khu vực nội thành là 26.758 nhà (xem Bảng 3).
2.2.4 Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn, an ninh đô thị ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Phòng Quản lý Đô thị đã tham mưu cho UBND thành phố ban hành một số văn bản nhằm triển khai thực hiện các quyết định của UBND thành phố Quảng Ngãi. Đồng thời, thực hiện theo chỉ đạo của UBND thành phố Quảng Ngãi về việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, bằng nhiều hình thức về các quy định của Nhà nước trong việc sử dụng vỉa hè, lòng đường để cán bộ và nhân dân trên địa bàn thành phố chấp hành và thực hiện có hiệu quả. Sau mỗi lần ra quân theo kế hoạch, ban chỉ đạo thành phố lập biên bản bàn giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cho UBND các phường xử lý theo quy định; và đồng thời lập biên bản bàn giao mặt bằng nguyên trạng sau khi đã được xử lý, giải toả xong tạo đường thông, hè thoáng và không còn tình trạng lấn chiếm vỉa hè để buôn bán kinh doanh cho UBND các phường tự quản lý và có kế hoạch chống tái lấn chiếm trở lại. Vì vậy, nhìn chung công tác quản lý trật tự đô thị và trật tự vỉa hè đã được triển khai mạnh mẽ, quyết liệt và duy trì thực hiện của các ngành, đơn vị chức năng liên quan dưới sự chỉ đạo của UBND thành phố đến nay đã cơ bản đi vào nề nếp.
Theo nhận định của Ban chỉ đạo thì ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tuân thủ về trật tự đô thị, trật tự an toàn giao thông đã được nâng lên. Hầu hết người dân đều đồng tình ủng hộ chủ trương của thành phố, đa số hộ dân tự tháo dỡ các tang vật, dụng cụ, các bục bệ lấn chiếm vỉa hè vi phạm giao thông đường bộ; tháo dỡ các bảng hiệu, bảng quảng cáo trái quy định góp phần tạo đường thông, hè thoáng, lập lại trật tự cảnh quan đô thị, thực hiện tốt nếp sống văn minh đô thị.
Tuy vậy, vẫn còn các trường hợp cố tình không chấp hành, tình trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường tại một số tuyến đường vẫn diễn ra, chưa được các phường quan tâm xử lý, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Công tác tuyên truyền vận động, ký cam kết chưa được thực hiện tốt, dẫn đến một số cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn phản ứng. Công tác bố trí lực lượng chống tái lấn chiếm vẫn chưa được UBND các phường triển khai dẫn đến tình trạng lấn chiếm trở lại.
Mời bạn tham khảo thêm:
2.3 Đánh giá quản lý nhà nước đối với đô thị tại thành phố Quảng Ngãi
2.3.1 Kết quả
Dưới góc nhìn quản lý nhà nước, khung pháp luật để quản lý xây dựng và phát triển đô thị ở thành phố liên quan đến các lĩnh vực: kiến trúc – quy hoạch, đầu tư và xây dựng, quản lý kinh doanh bất động sản, sử dụng đất, nhà, cơ sở hạ tầng đô thị… từng bước được hoàn thiện, tạo nên hành lang pháp lý để phát triển đô thị.
Trong từng lĩnh vực được giao, lãnh đạo cơ quan đã phân công chuyên viên đảm bảo đúng năng lực, sở trường của từng người trong mỗi công việc, quản lý hiệu quả công việc để đánh giá đúng mức độ hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời, với đội ngũ cán bộ của phòng QLĐT hiện nay là cơ bản đáp ứng yêu cầu … Nhờ đó, đã phát huy tính tự giác của mỗi người, có trách nhiệm cao với công việc và luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Cùng với kết quả làm việc của cả hệ thống chính trị trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi từ thành ủy, UBND thành phố, các phòng ban ngành, UBND các phường, các hội đoàn thể … đến cán bộ, đảng viên, công chức đều nhập cuộc vào tiến trình chung để xây dựng thành phố ngày càng văn minh giàu mạnh. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Sự chỉ đạo kịp thời của thành ủy, UBND thành phố, tranh thủ kết hợp với công tác phối hợp giữa các ngành, địa phương và cơ quan ngành dọc cấp trên, tạo điều kiện để phòng Quản lý đô thị chủ động và làm tốt công tác tham mưu cho UBND thành phố, xây dựng kế hoạch hoạt động nhằm hoàn thành tốt chỉ tiêu kinh tế – xã hội được giao hàng năm. Mặt khác, bản thân phòng Quản lý đô thị cũng thường xuyên cập nhật các đồ án quy hoạch mới phê duyệt, các văn bản nghiên cứu quy hoạch để quản lý quy hoạch và kịp thời xử lý các hồ sơ xác nhận quy hoạch đúng quy định.
Các doanh nghiệp trên địa bàn cùng chung tay góp sức xây dựng quê hương đóng góp tiền thuế, công sức trong quá trình xây dựng chỉnh trang của thành phố Quảng Ngãi. Với việc đáp ứng yêu cầu cơ bản về phát triển đô thị giúp cho suy nghĩ của người dân trong việc thực hiện lối sống văn hóa, văn minh đô thị thực sự ngày càng phát triển đi lên. Người dân trên địa bàn luôn luôn ủng hộ các chủ trương ở trên, cùng chung tay góp sức (thông qua sự đóng góp bằng tiền của, bằng tường rào, cổng ngõ, đất đai… theo mô hình “Nhà nước và nhân dân cùng làm”) để xây dựng thành phố.
Chính với những nỗ lực trong quản lý nhà nước đã góp phần đem lại các thành quả kinh tế xã hội của thành phố Quảng Ngãi đạt được đáng kể, cụ thể đó là:
Trong giai đoạn 2010-2016 trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi có khoảng 1,5 triệu m2 nhà ở được xây dựng. Nhiều công trình mới được xây dựng. Khoảng 23 km đường đô thị được nâng cấp và xây dựng mới. 16 trường học phổ thông cấp nhà trẻ, mẫu giáo được hoàn thành. 6 nhà nghỉ và khách sạn được xây dựng. 1 Công viên được chỉnh trang đẹp hơn. 1 nhà máy cấp nước đã được cải tạo. Hệ thống chuyển tải điện được hoàn thiện, đáp ứng đủ diện cho thành phố. Trung tâm văn hóa của tỉnh được hoàn thành. Quảng trường thành phố đươc xây dựng. Hiện tuyến đường kết nối thành phố Quảng Ngãi với thành phố Vạn tường và khu kinh tế Dung Quất đã được hoàn thành. Đặc biệt, thành phố Quảng Ngãi đã cơ bản đảm bảo thu nước mặt trên địa bàn nội thành về hai hồ điều hòa, giải quyết hoàn toàn được vấn đề ngập úng nặng trong nội thành trước đây.
Hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội có bước tiến bộ mới. Một số chỉ tiêu sau 6 năm đã tăng gấp 1,4 lần (xem thêm biểu 1)
2.3.2. Những hạn chế, yếu kém ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
So với yêu cầu phát triển mới thì vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế đang đặt ra. Đó là:
Hệ thống văn bản pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẩn nhau về nội dung; chưa đáp ứng được yêu cầu thống nhất quản lý và phát triển đô thị phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý quy hoạch, xây dựng và phát triển đô thị nhìn chung đang rất còn thiếu và yếu. Bằng chứng là: Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đã được quy định khá cụ thể trong nhiều đạo luật chuyên ngành, song các luật này cũng chưa đề cập rõ quy hoạch nào thực hiện trước, quy hoạch nào đi sau đó.
Về nội dung quy hoạch mạng lưới đô thị đều có sự trùng lặp trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị. Quy hoạch hạ tầng kết nối giữa các đô thị cũng là nội dung còn trùng lặp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội. Trong khi nhiều vấn đề mang tính chuyên ngành của xây dựng trong quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng lại chưa quan tâm đầy đủ… Quy hoạch đô thị vẫn chưa đáp ứng yêu cầu làm cơ sở quản lý phát triển đô thị trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Hệ thống chính sách và cơ chế quản lý đối với quy hoạch đô thị còn phức tạp ở nhiều cấp, ngành. Hiện nay, 3 loại quy hoạch đô thị là Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch xây dựng và các quy hoạch ngành thì do nhiều tổ chức khác nhau thực hiện như Sở Tài nguyên – Môi trường, Viện quy hoạch kiến trúc và các sở ban ngành khác. Chất lượng quy hoạch đô thị còn yếu về những nội dung kinh tế, pháp luật, sinh thái, môi trường và xã hội, quy hoạch vẫn còn mang nặng tính chỉ tiêu và thiếu tính toán chiến lược phát triển.Việc đầu tư nghiên cứu xây dựng mới hệ thống các quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn kể cả sổ tay thiết kế trong lĩnh vực thiết kế quy họach và quản lý đô thị chưa có hệ thống, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay và tiếp diễn.
Công tác quy hoạch đô thị lâu nay mới chỉ được hiểu là công việc của các kiến trúc sư và kỹ sư xây dựng (thiên về lối tư duy kỹ trị), mà lại thiếu sự phối hợp giữa các chuyên ngành, thiếu sự đồng bộ giữa các công trình hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật. Tuy vai trò của các kiến trúc sư và kỹ sư xây dựng rất quyết định nhưng không phải là duy nhất, bởi trong thực tế đô thị đang rất cần những chuyên gia thiết kế đô thị (urban design), rất cần những chuyên gia quy hoạch đô thị (urban planner).
Chính quyền thành phố và các nhà làm chính sách mới chỉ quan tâm chủ yếu đến khâu lập, thẩm định và phê duyệt đồ án quy hoạch, mà chưa có sự chú ý đúng mức cần thiết đối với quản lý thực hiện quy hoạch. Ngay cả việc công khai công bố quy hoạch đô thị đã được duyệt theo quy định vẫn còn chưa được triển khai kịp thời hoặc thực hiện triệt để ở một số khu vực. Tình trạng buông lỏng công tác quản lý quy hoạch, đô thị và quản lý đầu tư xây dựng vẫn còn diễn ra, dẫn đến chưa chủ động trong công tác kiểm tra, phát hiện, ngăn ngừa và xử lý sai phạm còn phổ biến, có những vụ việc khi phát hiện ra ra thì sự đã rồi. Điều đó khiến cho tình trạng xây dựng không phép, trái phép theo kiểu “mạnh ai nấy xây” trong những năm vừa qua vẫn còn diễn ra ở một số khu vực trên địa bàn Thành phố. Công tác tuyên truyền vận động, ký cam kết các trường hợp không tái phạm lấn chiếm vỉa hè, lòng đường tại một số tuyến đường chưa được thực hiện tốt. Đô thị của Thành phố phát triển nhanh về quy mô chiều rộng, nhưng điểm kết nối giữa các khu vực còn thiếu sự đồng bộ về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn trong các lĩnh vực tài nguyên, môi trường và đô thị còn thiếu và yếu chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý đô thị. Gần 65% cán bộ xây dựng – địa chính và Môi trường của các phường hiện có trình độ chuyên môn không đồng đều và chưa chuyên sâu (nhất là yếu về kiến thức quản lý xây dựng và phát triển đô thị…), bởi hầu hết đội ngũ cán bộ quản lý đô thị cấp phường được thuyên chuyển hoặc tuyển dụng từ cán bộ chuyên môn kỹ thuật và không được trang bị kỹ năng quản lý nói chung và kỹ năng quản lý đô thị nói riêng. Dẫn đến công tác quản lý tài nguyên và môi trường của đô thị ở từng phường vẫn còn có mặt hạn chế; việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về đô thị đã ban hành còn kém hiệu quả, kém hiệu lực.
Sự tham gia cộng đồng trong QHĐT cho đến nay tuy đã được Chính phủ xem xét nhưng vẫn chưa có một văn bản chính thức đề cập đến vấn đề này, cũng như chưa có một định nghĩa rõ ràng đối với thuật ngữ “sự tham gia của cộng đồng”. Trên thực tế tại thành phố Quảng Ngãi, việc đóng góp ý kiến của người dân vào công tác lập quy hoạch đô thị, kế hoạch sử dụng đất của địa phương chưa được coi trọng. Vì phần lớn khi các dự án đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt rồi mới công bố thì cộng đồng người dân mới được biết. Nói cách khác, là thực tế vẫn đang thiếu sự tham gia của cộng đồng người dân trong suốt quá trình phát triển đô thị.
Hậu quả là có sự cách biệt khá lớn giữa quy hoạch và thực tiễn phát triển của đô thị. Biểu thị ra về các mặt phát triển kinh tế – xã hội:
+ Cơ cấu kinh tế chưa đổi mới mạnh như mong muốn. Công nghiệp đang còn ở trình độ trung bình và thấp. Dịch vụ chưa phát triển (nhất là dịch vụ ngân hàng, viễn thông, du lịch, ăn uống, nghỉ ngơi, văn hóa nghệ thuật…).
+ Năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm sản xuất tại thành phố Quảng Ngãi kém. Khó khăn chưa được tháo gỡ kịp thời nên hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có hiệu quả cao.
+ Dân số tăng cơ học hơi nhiều nên gây khó khăn hơn về kết cấu hạ tầng nhà ở, cơ sở cung cấp điện, nước, thoát nước.
+ Ngoại trừ bệnh viện đa khoa Thành phố Quảng Ngãi có trạm làm sạch nước thải, còn lại các trung tâm y tế khác trên địa bàn vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải hoặc có nhưng chỉ xử lý sơ bộ trước khi xả ra môi trường.
+ Thành phố Quảng Ngãi nhìn chung chưa cạnh tranh được với các thành phố Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quy Nhơn về nhiều mặt, chưa có sự hấp dẫn nhân tài, người giàu từ nơi khác đến thành phố Quảng Ngãi sinh sống và làm việc.
+ Chính quyền thành phố chưa chủ động ban hành và tổ chức thực hiện những chính sách hấp dẫn để thu hút nhân tài, các nhà đầu tư lớn đến làm ăn. Vì thế trong tình trạng thiếu vốn đầu tư nhưng chưa thu hút được các dòng vốn từ các thành phố lớn và từ các quốc gia phát triển.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
- Hệ thống văn bản pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẩn nhau về nội dung; chưa đáp ứng được yêu cầu thống nhất quản lý và phát triển đô thị phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, ngay cả Luật Tổ chức chính quyền địa phương vẫn chưa có chế định cụ thể về chính quyền đô thị. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý quy hoạch, xây dựng và phát triển đô thị nhìn chung đang rất còn thiếu đồng bộ và yếu về hiệu lực. Nên mô hình quản lý của chính quyền thành phố không khác nhiều so với mô hình chính quyền cấp huyện; và vì thế không thể ứng phó kịp thời với các vấn đề nảy sinh ở một đô thị như thành phố Quảng Ngãi.
- Thiếu cơ chế tham vấn/ tham gia của cộng đồng người dân trong suốt quá trình phát triển đô thị.
- Quy hoạch đô thị và quản lý quy hoạch vẫn chưa đáp ứng yêu cầu làm cơ sở quản lý phát triển đô thị trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Công tác quy hoạch đô thị thiên về lối tư duy kỹ trị nhưng lại thiếu sự phối hợp giữa các chuyên ngành, dẫn đến quy hoạch đang nặng tính chỉ tiêu mà thiếu tính toán chiến lược phát triển. Chính quyền thành phố và các nhà làm chính sách chưa chú trọng đúng mức cần thiết đối với quản lý thực hiện quy hoạch. Năng lực quản lý của chính quyền thành phố cũng còn rất nhiều hạn chế. Việc cải cách hành chính, xây dựng chính quyền điện tử diễn ra tương đối chậm gây ảnh hưởng đáng kể đến yêu cầu quản lý đô thị. Theo Kết quả điều tra dư luận xã hội về công tác quản lý đô thị tại thành phố Quảng Ngãi cũng thể hiện mức độ phản ánh ở các câu hỏi cụ thể sau:
Với câu hỏi: Bạn có biết trước các thủ tục, quy định về lĩnh vực mà bạn thực hiện khi đến tổ một cửa hay không? Thì nhận được 69,2% ý kiến cho rằng là không biết trước các thủ tục, quy định về lĩnh vực mà bạn thực hiện khi đến tổ một cửa.
Với câu hỏi: Bạn biết trước các thủ tục, quy định về lĩnh vực ở tổ một cửa thông qua hình thức nào? Thì chỉ nhận được 15,4% ý kiến được biết thông qua bảng niêm yết tại tổ một cửa mà thôi và 15,4% ý kiến biết thông qua thông tin tìm kiếm trên mạng internet.
Trong khi đó với câu hỏi: Nếu có ứng dụng “Tổ một cửa điện tử” trên điện thoại hoặc máy tính, bạn có muốn sử dụng hay không? Thì tất cả 100% ý kiến đều có nhu cầu sử dụng.
Với câu hỏi: Bạn đánh giá như thế nào về tổ một cửa hiện nay của UBND thành phố Quảng Ngãi? Tỉ lệ đánh giá về tổ một cửa ở mức độ hài lòng trung bình còn chiếm 83,3% và mức kém 8,3%.
- Đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn trong các lĩnh vực tài nguyên, môi trường và đô thị còn thiếu và yếu về kỹ năng chuyên sâu (nhất là yếu về kiến thức quản lý xây dựng và phát triển đô thị…), nên chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý đô thị. Theo Kết quả điều tra dư luận xã hội về công tác quản lý đô thị tại thành phố Quảng Ngãi cũng phản ánh ở câu hỏi: Bạn thấy điều gì chưa được hài lòng nhất khi đến làm việc tại tổ một cửa của UBND thành phố Quảng Ngãi? Thì còn chiếm đến 58,3% ý kiến phản ánh chưa được hài lòng về thái độ ứng xử của cán bộ, công chức.
- Bãi giữ xe chật chội không đáp ứng được nhu cầu người dân đến làm việc. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
- Phòng chờ nhỏ, không đủ thiết bị làm mát vào mùa hè.
- Chờ đợi lâu để tới lượt làm việc.
- Thái độ của cán bộ, công chức, viên chức tại tổ một cửa không thân thiện hoặc không nhiệt tình hướng dẫn tổ chức, công dân khi thực hiện thủ tục hành chính.
- Thiết kế bảng niêm yết công khai chưa được bắt mắt hoặc để nơi khó quan sát.
Việc thanh tra, kiểm tra hoạt động xây dựng chưa đem lại hiệu quả cao, việc xây dựng không theo quy hoạch khá phổ biến.
Thiếu cơ chế tham gia của cộng đồng người dân trong suốt quá trình phát triển đô thị.
Vị trí địa lý không thuận lợi bằng một số thành phố đã nói tới ở ven biển Miền Trung nên chưa thể thu hút được vốn để đầu tư phát triển thành phố. Hơn nữa, trong thời gian vừa qua biến đổi khí hậu đã gây ảnh hưởng xấu cho thành phố những do thiếu vốn nên nhiều vấn đề chưa được khắc phục kịp thời ảnh hưởng không tốt đến phát triển kinh tế – xã hội.
Tiểu kết chương 2
Chính quyền thành phố Quảng Ngãi đã quan tâm đến quản lý đô thị thành phố Quảng Ngãi, quan tâm nhiều đến hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, vì thế bộ mặt thành phố đã khang trang hơn, đẹp hơn. Nhân dân có việc làm và tăng được thu nhập nên nhìn chung đời sống của họ được cải thiện. Tuy thế, hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội cũng như hiệu quả quản lý nhà nước đối với thành phố còn nhiều hạn chế. Rõ nhất là:
- Cơ cấu kinh tế của thành phố Quảng Ngãi chậm đổi mới, thiếu những ngành nghề sử dụng công nghệ cao và có hiệu quả lớn.
- Năng lực quản lý đô thị của chính quyền thành phố nhìn chung còn hạn chế, thậm chí có ý kiến cho rằng đang ở mức thấp, vẫn mang dáng dấp của kiểu quản lý hành chính là chủ yếu. Nắm bắt tình hình tương đối kịp thời nhưng giải pháp đưa ra thì chậm và thiếu mức (chủ yếu do thiếu vốn), kê sách phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thành phố cũng nhưu chưa đáp ứng được mong mỏi của người dân.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Giải pháp nâng cao quản lý nhà nước đô thị Thành phố

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com