Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố là một bài luận văn thạc sĩ thuộc chuyên ngành Quản lý công được giáo viên đánh giá rất cao. Quản lý trật tự, an toàn đô thị là bảo đảm và duy trì sự ổn định bền vững của đô thị, bao gồm trật tự công cộng, trật tự giao thông, phòng chống cháy nổ, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống thiên tai bão lụt, đăng ký hộ khẩu, tạm vắng, tạm trú, vãng lai, v.v… Dưới đây là bản đầy đù Đề tài: Quản lý nhà nước về đô thị tại thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quản lý nhà nước đối với đô thị là vấn đề quan trọng. Nhiều năm nay ở cấp cả nước và ở cấp địa phương (tỉnh) chính quyền và nhân dân tại các đô thị đã cố gắng tìm giải pháp để phát triển các đô thị một cách bền vững nhưng kết quả đem lại còn rất hạn chế, nhiều đô thị phát triển thiếu bền vững. Tại sao vậy? Thực tiễn chỉ ra rằng nhiều vấn đề lý luận về phát triển đô thị và quản lý phát triển đô thị chưa được sáng tỏ. Chẳng hạn, vai trò của chính quyền đến đâu trong việc phát triển đô thị, nội dung quản lý nhà nước đối với đô thị ra sao, đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển đô thị… chưa được nghiên cứu thỏa đáng.
Thành phố Quảng Ngãi là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Ngãi, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và an ninh – quốc phòng của Tỉnh; thành phố Quảng Ngãi nằm vị trí cách thành phố Quy Nhơn 170 km; cách thành phố Hồ Chí Minh 821 Km và cách Thủ đô Hà Nội 889 Km, nằm trên tuyến giao thông huyết mạch Bắc – Nam (đường bộ, đường sắt). Ngày 12/12/2013, Chính phủ ban hành nghị quyết định số 123/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Sơn Tịnh, huyện Tư Nghĩa để mở rộng địa giới hành chính thành phố Quảng Ngãi và thành lập phường Trương Quang Trọng thuộc thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Sau quá trình chuẩn bị và đề nghị công nhận, ngày 24/9/2015, thành phố Quảng Ngãi được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Với việc mở rộng diện tích từ 37,12 Km2 lên 160,153 Km2, cùng với đó là dân số tăng và nhiều vấn đề đô thị khác lớn hơn. Đặt ra cho công tác quản lý nhà nước về đô thị ở thành phố Quảng Ngãi một thách thức mới, đó là phải tìm ra định hướng và mục tiêu để phát triển đô thị trong giai đoạn mới.
Với những lý do trình bày ở trên, tác giả chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về đô thị tại thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý công để góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với đô thị, cung cấp thêm một số cơ sở khoa học để chính quyền tỉnh Quảng Ngãi hoạc định chính sách phát triển và quản lý phát triển thành phố Quảng Ngãi của tỉnh Quảng Ngãi.
Có thể bạn quan tâm:
2. Mục đích, nhiệm vụ
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất định hướng, các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị thành phố Quảng Ngãi để góp phần làm cho thành phố Quảng Ngãi phát triển một cách bài bản, khoa học, hiện đại nhưng vẫn giữ được các kiến trúc, văn hoá truyền thống.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu
- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với đô thị;
- Trên cơ sở tổng quan, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với thành phố Quảng Ngãi phát hiện những vấn đề yếu kém, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị thành phố Quảng Ngãi trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quản lý nhà nước đối với thành phố Quảng Ngãi và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thành phố Quảng Ngãi.
Phạm vi nghiên cứu
+ Về mặt thời gian: Nghiên cứu thực trạng giai đoạn 2010-2016 và tương lai đến 2020.
+ Về mặt không gian: Thành phố Quảng Ngãi và đặt nó trong mối quan hệ với tỉnh Quảng Ngãi.
+ Về mặt nội dung: Luận văn nghiên cứu cả lý thuyết và thực tiễn, nghiên cứu cả thực trạng và tương lai. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị thành phố Quảng Ngãi của tỉnh Quảng Ngãi.
4. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Tác giả tiếp cận đề tài theo các hướng chính:
+ Tiếp cận hệ thống: coi quản lý nhà nước đối với đô thị thành phố Quảng Ngãi là một hệ thống; Quản lý nhà nước đối với đô thị Quảng Ngãi cũng là một hệ thống.
+ Tiếp cận từ lý thuyết đến thực tiễn: Sau khi làm rõ những vấn đề lý thuyết có liên quan tác giả tiến hành phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với đô thị thành phố Quảng Ngãi
+ Tiếp cận từ kinh tế vĩ mô đến kinh tế vi mô: từ các chính sách chung về phát triển đô thị và quản lý đô thị của Nhà nước đi đến xem xét cụ thể chính sách quản lý nhà nước đối với đô thị tại thành phố Quãng Ngãi.
+ Tiếp cận liên ngành: Hoạt động phát triển ở một đô thị gồm rất nhiều lĩnh vực, thuộc rất nhiều ngành; đồng thời việc quản lý nhà nước đối với đô thị cũng liên quan tới việc quản lý của rất nhiều ngành. Chẳng hạn như quản lý dân số, việc làm, hoạt động công nghiệp, dịch vụ, quản lý đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường…
+ Tiếp cận theo nguyên lý nhân – quả: Mỗi kết quả đều có nguyên nhân của nó. Những hạn chế, yếu kém trong việc quản lý nhà nước đối với đô thị đều có nguyên nhân của nó. Tìm ra nguyên nhân chính là tìm ra các căn cứ để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị tại thành phố Quảng Ngãi trong những năm tới
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp chính sau
- Phương pháp khảo sát thực tế: sử dụng để thu thập thêm thông tin tạ thực địa, nắm bắt thêm tình hình thực tế trên địa bàn thực tế thông qua tìm hiểu thực tế trên địa bàn thành phố. Kết hợp với phương pháp xã hội học với phiếu mẫu điều tra 40 người để nhận định rõ hơn.
- Phương pháp phân tích thống kê: tác giả sử dụng để phân tích số liệu về hiện trạng phát triển kinh tế – xã hội và hiệu quả phát triển của đô thị thành phố Quảng Ngãi.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị thành phố Quảng Ngãi, so sánh những việc UBND thành phố đã thực thi với kết quả, hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Quảng Ngãi.
- Phương pháp chuyên gia: sử dụng để thu thập thêm thông tin và để thẩm định các nhận định và kết luận của tác giả.
- Phương pháp phân tích chính sách: sử dụng để xác định điểm đúng, điểm chưa đúng, điểm cần bổ sung trong các chính sách của nhà nước cũng nhưu của UBND thành phố Quảng Ngãi để tạo khung khổ pháp lý tốt hơn đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố Quảng Ngãi trong thời gian tới.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
- Góp phần làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với đô thị để vận dụng vào việc nghiên cứu quản lý nhà nước đối với thành phố Quảng Ngãi: nội hàm của quản lý nhà nước đối với đô thị là gì? Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị ra sao?
- Cung cấp căn cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương, đường lối quản lý nhà nước đối với thành phố Quãng Ngãi cũng như cung cấp thêm căn cứ để UBND thành phố Quãng Ngãi xác định giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thành phố Quảng Ngãi trong thời gian tới.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với đô thị
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với đô thị tại thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị thành phố Quảng Ngãi
7. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tác giả thu thập được 32 văn bản quy phậm pháp luật dạng Nghị định có đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp về phát triển đô thị và quản lý đô thị ở Việt Nam. Dưới đây tác giả xin tổng quan một số công trình tiêu biểu.
Bốn Nghị định của Chính phủ về quy hoạch đô thị, xây dựng đô thị và quản lý đô thị. Trong đó nổi bật là Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định 72/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 10 năm 2001 về việc Phân loại đô thị và phân cấp quản lý đô thị. Các Nghị định này chỉ rõ quản lý đô thị thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương. Đồng thời xác định trách nhiệm quản lý đô thị của cấp chính quyền đô thị (thành phố thuộc tỉnh, thị xã và thị trấn) trong việc thực thi chức năng quản lý nhà nước. Theo đó chính quyền của các loại đô thị thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn là phải tổ chức lập quy hoạch phát triển đô thị và tổ chức thực hiện quy hoạch ấy, trong đó đặc biệt là quản lý các hoạt động kinh tế, xã hội, xây dựng, đất đai, bảo vệ môi trường, an ninh quốc phòng và trật tự xã hội.
Nghị định số 08/2005/NĐ-CP ngày 24/01/2005 của Chính phủ về quy hoạch xây dựng quy định nhiều nội dung quan trọng về quy hoạch xây dựng, tạo lập các căn cứ quan trọng để tiến hành quy hoạch xây dựng ở các đô thị của nước ta.
Nghị quyết 39/NQ-TW ngày 16 tháng 8 năm 2004 của Bộ Chính trị về Phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 đã xác định Tp Quảng Ngãi là đô thị cỡ trung, do UBND tỉnh Quảng Ngãi trực tiếp quản lý với chức năng cơ bản là Trung tâm hành chính, chính trị, văn hóa, khoa học công nghệ của tỉnh và có chức năng phối hợp với đô thị Vạn Tường để thúc đẩy khu kinh tế Dung Quất. Nghị định 42/20009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 5 năm 2009 về phân loại đô thị cũng đã xác định Tp Quảng Ngái là đô thị loại 3 thuộc tỉnh quản lý. Có bộ máy quản lý ngang với cấp huyện và được tổ chức theo yêu cầu phát triển của một đô thị. Nghị định số 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 về quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Nghị định số 38/2010/NĐ-CP ngày 07/04/2010 của Chính phủ về quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị đã xác định rõ chức năng của chính quyền thành phố cần quy hoạch và quản lý theo quy hoạch không gian, đô thị, không gian kiến trúc và mỹ thuật kiến trúc đô thị cũng như quy hoạch sử dụng cảnh quan đối với một đô thị.
Nghị định số 180/2007/NĐ-CP ngày 07/02/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị. Nghị định số 92/2011/NĐ-CP ngày 07/09/2006 của Chính phủ về quy định lập phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội và Luật quy hoạch 2017 đã quy định rõ yêu cầu đối với quy hoach phát triển kinh tế- xã hội đô thị 2017 (ghi trong Điều 5: Hệ thống quy hoạch quốc gia, tại Luật số 21/2017/QH14, ngày 24/11/2017).
Đề tài “Quản lý nhà nước về đô thị tại thành phố Hà Nội, lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn Ngọc Quyền, học viên CH14G, khóa 14, Học viện Hành chính quốc gia. Một lĩnh vực trong đô thị đó là hạ tầng kỹ thuật đô thị, có đề tài “Quản lý nhà nước về hạ tầng kỹ thuật đô thị ở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình” học viên Hoàng Hải Thành.
Đề tài: “Quản lý nhà nước đối với công tác xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong đô thị ở Việt Nam hiện nay”, học viên Bùi Ngọc Linh, Khóa 13, Học viện Hành chính quốc gia. Công tác quy hoạch đô thị cũng là một lĩnh vực nằm trong số các lĩnh vực mà công tác quản lý nhà nước ở đô thị. Ở thành phố Đà Nẵng có đề tài “Quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị thành phố Đà năng theo hướng phát triển bền vững” của học viên Nguyễn Đoàn Đoan Trang.
Tác giả thu thập được 8 tài liệu dưới dạng các Báo cáo phát triển kinh tế – xã hội hay báo cáo tình hình quy hoạch, thực hiện quy hoạch phát triển của Tp Quảng Ngãi. Nhìn chung sự phát triển của Tp Quảng Ngãi có vai trò quan trọng của chính quyền thành phố. Chính quyền thành phố dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh đã lập quy hoạch phát triển thành phố, ban hành và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, môi trường thành phố. Nhân dân và doanh nghiệp đã cùng xây dựng thành phố. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ phía UBND thành phố đã góp phần làm cho thành phố Quảng Ngãi phát triển chưa đươc như mong muốn.
Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐÔ THỊ
1.1 Cơ sở lý luận ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
1.1.1. Khái niệm về đô thị
Đô thị là khái niệm có tính tương đối, được quan niệm dựa theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội, hệ thống dân cư và theo yêu cầu cũng như khả năng quản lý mà mỗi quốc gia có quy định riêng. Đối với Việt Nam, đô thị là tên gọi chung của thành phố, thị xã, thị trấn và thị tứ. Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn [40].
Về dấu hiệu chung nhất, đô thị là sản phẩm của văn minh xã hội, nó vừa là trung tâm của một vùng lãnh thổ có các hoạt động kinh tế với đặc trưng là lao động phi nông nghiệp giữ vai trò quyết định phát triển kinh tế xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ nhất định, là nơi tập trung đầu mối về giao thông, hàng hoá dịch vụ, thông tin và giao lưu trong nước cũng như quốc tế; đồng thời đô thị vừa là không gian cư trú của cộng đồng người sinh sống tập trung với mật độ cao, họ làm việc theo phong cách sống văn minh thành thị, lối sống công nghiệp hiện đại.
Điểm khác biệt so với nông thôn ở chỗ: đô thị có mật độ dân số cao, kết cấu dân cư phức hợp, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội có tính liên thông, đồng bộ, là điểm kết nối và lan tỏa về giao thông, hàng hoá dịch vụ, giao lưu, truyền thông và tri thức, là trung tâm của các chuyển biến về kinh tế – xã hội… Lao động ở đô thị có tính chuyên môn hóa cao hơn, tính cách của thị dân tự do hơn và mối quan hệ tình cảm (rộng hơn là nhân văn) cũng ít lệ thuộc lẫn nhau. Song điểm đáng lưu ý, mỗi gia đình tuy sống độc lập trong một căn hộ nhưng sinh hoạt ở các gia đình đều có ảnh hưởng tác động lẫn nhau làm cuộc sống đô thị phụ thuộc vào nhau (sự phụ thuộc lẫn nhau ở đô thị không đi kèm với mối liên hệ ràng buộc của nông thôn), phụ thuộc vào những nhà quản lý và phụ thuộc vào hệ thống hạ tầng – dịch vụ cung ứng cho xã hội đó. Sự phụ thuộc lẫn nhau ở đô thị được phản ánh thông qua sự liên hệ lợi ích được chia sẻ từ các tài nguyên công cộng, gắn bó về không gian chung và nhất là hệ thống công trình công cộng và hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Chính những đặc thù của đô thị vừa nêu đặt ra nền móng cho mối quan hệ giữa thị dân và chính quyền quản lý họ, nó đòi hỏi phải có những mối quan hệ luật pháp, chính sách quản lý tinh tế hơn để điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội và bảo vệ tài sản công, lợi ích công cộng từ những cộng đồng nhỏ cho đến toàn địa bàn đô thị.
1.1.2. Đô thị hóa
Đô thị hóa (Urbanization) là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, là sự hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất và đời sống. Quá trình đô thị hóa là quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc xây dựng từ dạng nông thôn sang thành thị.
Mức độ đô thị hóa được tính bằng tỉ lệ % số dân đô thị so với tổng dân số toàn quốc hay vùng. Tỉ lệ dân số đô thị đã từng được coi là thước đo về đô thị hóa để so sánh mức độ đô thị hóa giữa các nước với nhau hoặc các vùng khác nhau trong một nước. Tuy nhiên, tỉ lệ % dân số đô thị chưa thể phản ánh đầy đủ mức độ đô thị hóa của các nước đó. Ngày nay, do nền kinh tế phát triển cao cũng như qua nhiều thế kỷ phát triển, đô thị và công nghiệp hóa đất nước đã ổn định ở các nước phát triển và phát triển cao. Chất lượng đô thị hóa lúc này phát triển theo các nhân tố chiều sâu. Đó là việc nâng cao chất lượng cuộc sống, tận dụng tối đa những lợi ích và hạn chế tối thiểu những ảnh hưởng xấu của quá trình đô thị hóa nhằm hiện đại hóa cuộc sống và nâng cao chát lượng môi trường đô thị.
Ỏ các nước đang phát triển, đặc trưng của đô thị hóa là sự tăng nhanh dân số đô thị không hoàn toàn dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp. Hiện tượng bùng nổ dân số đi cùng với sự phát triển yếu kém của công nghiệp đã làm cho quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa mất cân đối, sự mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn càng thêm sâu sắc làm cho quá trình phát triển không bền vững. Sự chênh lệch về đời sống đã thúc đẩy sự dịch chuyển dân số từ nông thôn ra thành thị một cách ồ ạt, làm cho đô thị phát triển nhanh chóng đặc biệt là ở các dô thị lớn, đô thị trung tâm, tạo nên những điểm dân cư đô thị cực lớn mất cân đối trong sự phát triển hệ thống dân cư.
1.1.3. Phân loại đô thị ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Cơ sở phân loại đô thị
- Mức độ đạt được của các tiêu chuẩn của đô thị quy định tại Nghị định 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 5 năm 2009 về phân loại đô thị.
- Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và định hướng phát triển hệ thống đô thị quốc gia, quy hoạch chung xây dựng đô thị.
- Thực trạng phát triển, các đặc thù riêng, vai trò chức năng của đô thị.
- Nhu cầu tổ chức quản lý hành chính nhà nước theo lãnh thổ.
Các cách phân loại đô thị
Sự phân loại được căn cứ vào một số chỉ tiêu cơ bản nhất của mỗi đô thị, đó là: (i) Các điều kiện sống và lao động của dân cư; (ii) Chức năng của đô thị trong phát triển kinh tế – xã hội; (iii) Quy mô dân số của đô thị; (iv) Vị thế của đô thị trong hệ thống đô thị…
Phân loại theo tiêu chí riêng rẽ:
- Theo quy mô dân số:
Trên thế giới, các đô thị thường được phân thành có quy mô: cực lớn; lớn; trung bình lớn; trung bình nhỏ và đô thị nhỏ. Tuy nhiên, do quy mô đất đai lãnh thổ và dân số nhỏ bé (kể cả các nước phát triển và đang phát triển), thường phân loại các đô thị ra làm 3 loại cơ bản sau: i/ Đô thị lớn có >1.000.000 người; ii/ Đô thị trung bình có từ 20.000 người đến dưới người; iii/ Đô thị nhỏ có từ 000 người đến dưới 20.000 người.
- Theo cấp hành chính – chính trị:
Thủ đô quốc gia hay liên bang; Thủ đô bang (nếu có cơ cấu liên bang); Tỉnh lỵ, huyện lỵ. Ở một số nước trên thế giới, đô thị không thuộc huyện (ngang cấp huyện); đô thị trực thuộc huyện (ngang cấp xã). Ở Việt Nam, Thành phố thuộc trung ương (cấp tỉnh); Thành phố thuộc tỉnh, thị xã (cấp huyện); Thị trấn (cấp xã).
- Theo tính chất sản xuất:
Dựa vào tính nổi trội về một sô lĩnh vực hoạt động, sản xuất nào đó, đô thị được phân thành: đô thị công nghiệp, đô thị du lịch, đô thị văn hóa…
- Phân loại tổng hợp:
Đây là cách phân loại dựa trên cơ sở của tổng hợp nhiều tiêu chí, để phục vụ cho quản lý nhà nước. Ở Việt Nam, theo Nghị định 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 5 năm 2009 về phân loại đô thị, các đô thị được phân thành 6 loại đô thị sau: loại đặc biệt1; I (Đô thị trực thuộc Trung ương); II; III; IV; V.
* Các trường hợp đặc biệt:
- Tiêu chuẩn phân loại đô thị áp dụng cho một số đô thị theo vùng miền: đối với các đô thị ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
- Đô thị loại đặc biệt (Thủ đô hoặc đô thị có chức năng là trung tâm kinh tế, tài chính, hành chính, khoa học – kỹ thuật, giáo dục – đào tạo, du lịch, y tế, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của cả nước). tiêu chuẩn về quy mô dân số và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 50% tiêu chuẩn quy định, còn các tiêu chuẩn khác phải bảo đảm tối thiểu 70% mức tiêu chuẩn quy định so với các loại đô thị tương đương.
- Tiêu chuẩn phân loại đô thị áp dụng cho một số đô thị có tính chất đặc thù: tiêu chuẩn về quy mô dân số và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 60% tiêu chuẩn quy định, các tiêu chuẩn khác phải đạt quy định so với các loại đô thị tương đương và bảo đảm phù hợp với tính chất đặc thù của mỗi đô thị.
1.1.4. Quản lý nhà nước đối với đô thị ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
1.1.4.1. Quan niệm về quản lý nhà nước đối với đô thị
“Quản lý Nhà nước về đô thị là sự tổ chức, điều hành, điều chỉnh và tác động của chính quyền nhà nước và các cơ quan chức năng chuyên môn các cấp từ trung ương tới địa phương vào quá trình xã hội, vào các hành vi, hoạt động của các tổ chức, cá nhân, nhóm cộng đồng dân cư nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm cho các đô thị phát triển ổn định, trật tự, bền vững và trường tồn trong quá trình tạo lập môi trường sống cho dân cư đô thị” [29, tr. 45]. Như vậy, thực chất quản lý nhà nước về đô thị là sự can thiệp của chính quyền bằng quyền lực vào các quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở đô thị với mục đích làm cho các đô thị trở thành những trung tâm hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và giao lưu quốc tế của mỗi vùng lãnh thổ.
Các lĩnh vực quản lý nhà nước về đô thị thường được chia thành ba nhóm, cụ thể:
Nhóm thứ nhất: quản lý nhà nước quá trình tạo dựng không gian vật chất – vật thể (xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật) của đô thị gồm có: quy hoạch; cảnh quan và kiến trúc; xây dựng; đầu tư xây dựng…
Nhóm thứ hai: quản lý nhà nước quá trình khai thác và sử dụng các cơ sở vật chất – kỹ thuật của đô thị, gồm có: quản lý nhà nước về đất đai và thị trường bất động sản; di sản; cảnh quan đô thị; kết cấu hạ tầng; vệ sinh môi trường đô thị…
Nhóm thứ ba: quản lý nhà nước các lĩnh vực đời sống xã hội khác của đô thị, chủ yếu gồm có: quản lý nhà nước về dân số; trật tự đô thị; phòng chống tế nạn xã hội; chính sách xã hội; tài chính đô thị; hành chính đô thị; phòng chống thiên tai, an toàn đô thị …
1.1.4.2. Phân cấp quản lý nhà nước đối với đô thị
Căn cứ vào nhu cầu tổ chức quản lý hành chính nhà nước theo lãnh thổ, mục đích của việc phân cấp quản lý đô thị, đó là để:
Tổ chức, sắp xếp và phát triển hệ thống đô thị trong cả nước;
Lập, xét duyệt theo thẩm quyền về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển đô thị cả nước;
Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn, các chính sách và cơ chế quản lý phát triển đô thị.
1.1.4.3. Đối tượng của quản lý nhà nước đối với đô thị
Đối tượng của quản lý nhà nước về đô thị, đó là tất cả các hoạt động phát triển (hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường, trật tư an toàn, an ninh chính trị, an ninh quốc phòng…) gắn với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn…Suy cho cùng cư dân, người dân từ nơi khác đến vãng lai, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội đều chịu sử quản lý của chính quyền thành phố.
Cư dân, người dân từ nơi khác đến vãng lai, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội là những yếu tố dộng và có lợi ích không thật giống nhau (thậm chí có thể nói là khác nhau) nên việc quản lý là khó khăn để tạo ra được một cộng đồng vì sự phát triển, thịnh vượng của thành phố. Chính đa dạng ở đối tượng quản lý như thế nên chính quyền các thành phố phải nắm bắt thật chắc các đối tượng quản lý trên địa bàn thành phố.
1.1.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với đô thị ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Quản lý nhà nước đối với đô thị cũng như hiệu quả Quản lý nhà nước đối với đô thị phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đó là (xem sơ đồ dưới)
Năng lực quản trị của chính quyền đô thị
Quy mô dân số, kinh tế và tính phức tạp về kinh tế – xã hội của đô thị
Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với đô thị và hiệu quả QLNN đối với đô thị
Luật pháp chung của nhà nước về quản lý đô thị
Vị trí địa lý tự nhiên, kinh tế, chính trị của đô thị
Mỗi đô thị có đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành, dân cư và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Các đặc điểm này đòi hỏi quản lý nhà nước về đô thị phải có cơ chế chính sách, sự phân cấp, phân quyền phù hợp cũng như sự vận dụng linh hoạt, hiệu quả các chính sách về xây dựng đô thị để vừa đảm bảo tính thống nhất trong thực thi vừa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về xây dựng, phát triển đô thị ở từng địa phương trên cơ sở phù hợp với các đặc điểm của địa phương đó, huy động tối đa các nguồn lực cho công tác xây dựng và quản lý đô thị.
Bộ máy quản lý nhà nước về đô thị là yếu tố quan trọng mang ý nghĩa mở đường khi xem xét trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng phát triển đô thị. Đây là chủ thể quản lý có vai trò quyết định. Nếu bộ máy không được thiết kế một cách khoa học mà chồng chéo, cồng kềnh thì công tác quản lý nhà nước về đô thị không hiệu quả mất trật tự. Do vậy, bộ máy quản lý đô thị nói chung và chức năng, nhiệm vụ nói riêng phải được tổ chức, xây dựng, sắp xếp một cách khoa học, tính gọn tránh nhiều tầng nấc, đầu mối trung gian, có quyền uy công vụ và sáng suốt. Bộ máy có sự phân công, phân cấp rõ ràng, mạch lạc, không chồng chéo lấn sang nhau sẽ là điều kiện để đảm bảo việc thực thi các nhiệm vụ về công tác quản lý đô thị.
Trình độ, năng lực, tầm nhìn tư duy, đạo đức với tính liêm khiết và trách nhiệm của đội ngũ công chức, nhất là người đứng đầu chính quyền đô thị trong việc đề ra và triển khai chính sách quản lý đô thị cần phải được lựa chọn cân nhắc kỹ lưỡng, bởi nó ảnh hưởng lớn đến nội dung và tính chất chính sách quản lý đô thị.
Hệ thống kinh tế đô thị hiện tại và trình độ của nó là yếu tố quan trọng và cũng là điểm xuất phát đòi hỏi quản lý nhà nước phải hạch toán. Trước yêu cầu của việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, các đô thị không ngừng phát triển với tốc độ đô thị hóa nhanh. Quá trình biến đổi nhanh chóng này đã đặt ra nhiều vấn đề mà quản lý nhà nước về đô thị cần phải chú trọng thiết kế để giải quyết. Nếu quản lý nhà nước không được tăng cường, hoàn thiện và đổi mới, đổi mới về nội dung và phương thức quản lý sẽ không theo kịp sự phát triển, không kiểm soát được các hoạt động xây dựng trong đô thị từng ngày, từng giờ với tốc độ nhanh chóng, dẫn đến tình trạng mất trật tự kỷ cương trong lĩnh vực này. Đây là mối đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định và phát triển bền vững của đô thị.
Quy hoạch xây dựng và thiết kế đô thị là sản phẩm của hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng đô thị. Quy hoạch xây dựng và thiết kế đô thị có chất lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đô thị. Dựa trên quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết, quy hoạch chuyên ngành đã được lập và xét duyệt, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành các bước đầu tư xây dựng như: Giới thiệu địa điểm, thỏa thuận kiến trúc quy hoạch, lập và phê duyệt dự án, cấp giấy phép xây dựng, xử lý các vi phạm…. chỉ có thực hiện Quy hoạch xây dựng và thiết kế đô thị đồng bộ và nghiêm túc, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể hoàn thành tốt chức năng quản lý nhà nước của mình trên lĩnh vực xây dựng, phát triển đô thị. Đây là một trong những yếu tố hết sức quan trọng mà nhà quản lý nhà nước cần đặc biệt quan tâm.
Kiến thức pháp luật và ý thức chấp hành của người dân là nhân tố rất quan trọng, tác động lớn đến công tác quản lý nhà nước về đô thị, bởi đó là quan hệ hai chiều: Một bên là Nhà nước (chủ thể quản lý) và một bên là người dân (đối tượng quản lý). Trong quy trình quản lý đô thị, không ai khác mà chính là người dân là chủ thể của hoạt động, làm phát sinh các quan hệ pháp luật về xây dựng đô thị thuộc phạm vi giải quyết của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như nó là yếu tố thành bại của một chính sách. Do đó, cần bàn đến trình độ dân trí và lối sống, khả năng tham gia của cộng đồng người dân đô thị. Nếu người dân hiểu biết pháp luật đầy đủ và nghiêm túc chấp hành những quy định của pháp luật trong xây dựng thì sẽ không xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật hay những tranh chấp, mâu thuẫn cần có sự can thiệp, giải quyết của Nhà nước.
- Nội dung (nhiệm vụ) quản lý nhà nước đối với đô thị
Nội dung (hay nhiệm vụ) quản lý nhà nước đối với đô thị được ra làm 3 nhóm:
Nhóm thứ I: Quản lý quá trình tạo dựng không gian vật chất – vật thể
(xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật) của đô thị, gồm có:
- Quản lý nhà nước về quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội và quy hoạch xây dưng
- Quản lý nhà nước về cảnh quan và kiến trúc
- Quản lý nhà nước về xây dựng và đầu tư xây dựng ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Nhóm thứ II: Quản lý quá trình khai thác sử dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật của đô thị, gồm có:
- Quản lý nhà nước về đất đai và thị trường bất động sản
- Quản lý nhà nước về di sản, cảnh quan đô thị
- Quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng
- Quản lý nhà nước về vệ sinh môi trường đô thị, v….
Nhóm thứ III: Quản lý các lĩnh vực khác, chủ yếu gồm có:
- Quản lý nhà nước về dân số, khách vãng lai, di dân
- Quản lý nhà nước về hoạt động kinh tế
- Quản lý nhà nước về trật tự đô thị
- Quản lý nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội
- Quản lý nhà nước về phòng chống thiên tai, an toàn đô thị
- Quản lý nhà nước về tài chính đô thị
- Quản lý nhà nước về hành chính đô thị
- Quản lý nhà nước về các vấn đề xã hội (gồm cả văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng).
Trong những lĩnh vực chủ yếu, đặc trưng của quản lý đô thị là quản lý quy hoạch, xây dựng, kiến trúc đô thị, nhà ở, đất đai, hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường và trật tự đô thị.
Vai trò và nội dung nhiệm vụ chủ đạo của quản lý nhà nước về đô thị được thể hiện ở:
Một là, hoạch định hay định hướng chiến lược phát triển đô thị hóa và hệ thống đô thị quốc gia và các vùng thông qua sự phê duyệt đồ án quy hoạch lãnh thổ và các đồ án quy hoạch vùng nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội quốc gia hay các địa phương (liên tỉnh, tỉnh). Vì quy hoạch đô thị là công cụ quản lý chủ yếu để thiết lập tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở để tạo lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch đô thị. Nên yêu cầu tiên quyết là sự phát triển đô thị phải dựa theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đang có hiệu lực mà Nhà nước đã thông qua, ban hành. Chính phủ và theo thẩm quyền quản lý xác lập quy hoạch xây dựng, phát triển và thiết kế kiến trúc các đô thị phát triển trong quan hệ tương thích và đồng bộ, cũng như ban hành các quy định quy chế, quy chuẩn, tiêu chuẩn quy phạm về quy hoạch đô thị, quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị để bảo đảm quá trình đô thị phát triển theo hướng bền vững.
Chẳng hạn, đối với quy hoạch xây dựng và thiết kế đô thị, dựa vào quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết và quy hoạch chuyên ngành được lập và đã duyệt, chính quyền các địa phương có thẩm quyền tiến hành các bước đầu tư xây dựng (giới thiệu địa điểm, thỏa thuận kiến trúc quy hoạch, lập và phê duyệt dự án, cấp giấy phép xây dựng, xử lý các vi phạm…). Chỉ có thực hiện Quy hoạch xây dựng và thiết kế đô thị đồng bộ và nghiêm túc, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể hoàn thành tốt chức năng quản lý nhà nước của mình trên lĩnh vực xây dựng, phát triển đô thị.
Về mặt tổng thể và cơ bản, Nhà nước quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch, gồm cả nội dung quản lý và sử dụng đất, hệ thống hạ tầng, không gian, cảnh quan và hệ thống không gian xanh đô thị. Các quy định này bám sát các yêu cầu của chính sách phát triển hạ tầng đô thị đồng bộ, sử dụng đất đô thị hiệu quả cho đầu tư phát triển đô thị.
Hai là, để đảm bảo đô thị đi vào hoạt động ổn định, chúng phải được thể chế hóa bằng các luật và văn bản quy phạm pháp luật về quản lý mọi hoạt động đô thị, tạo thành hành lang pháp lý đảm bảo tính ổn định cho quá trình quản lý và phát triển đô thị. Theo đó, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin và giáo dục pháp luật về đô thị phải đi trước làm cơ sở triển khai hiệu lực pháp lý các hoạt động đô thị.
Ba là, xây dựng các chính sách thuận lợi để huy động vốn đầu tư, khai thác các nguồn vốn trong và ngoài nước theo phương châm lấy đô thị nuôi đô thị. Đó là chính sách đa dạng hóa và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho phát triển đô thị với việc quy định bổ sung phương thức và hình thức huy động nguồn lực tài chính, bao gồm: thuế liên quan đến bất động sản; đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử dụng đất; chuyển nhượng quyền phát triển đô thị; khai thác, sử dụng dịch vụ hạ tầng kỹ thuật; huy động và thành lập các quỹ đầu tư theo hình thức đối tác công tư; quỹ đầu tư xây dựng phát triển đô thị.
Chính sách quản lý phát triển đô thị phải bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực đất đai và tài nguyên cũng như quản lý phát triển đô thị theo hướng tăng trưởng xanh, đô thị thông minh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bốn là, thực hiện quản lý toàn diện trên mọi lĩnh vực, mọi địa bàn đối với tất cả thành phần kinh tế – xã hội, các tổ chức cá nhân theo đúng quy hoạch, kế hoạch và pháp luật. Trong quản lý đô thị có sự kết hợp giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ với sự phân cấp, phân quyền và phối hợp, kết hợp các cơ quan Trung ương và địa phương theo thẩm quyền và trách nhiệm được giao. Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ để đảm bảo quản lý mọi hoạt động đô thị thông suốt, ổn định để phát triển bền vững.
Năm là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về phát triển và quản lý đô thị theo quy định pháp luật. Bảo vệ kỉ cương, trật tự an ninh, an toàn đô thị trong suốt quá trình phát triển.
Mời bạn tham khảo thêm:
1.1.4.5. Công cụ và phương pháp quản lý nhà nước về đô thị ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Quy hoạch đô thị (Khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì nó trở thành văn ban quy phạm pháp luật)
Quy hoạch đô thị giúp Nhà nước kiểm soát được tiến trình phát triển đô thị, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của đô thị, giữ gìn trật tự đô thị, giải quyết các tranh chấp và xử lý vi phạm. Quy hoạch đô thị phải đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ, tính khoa học, tính dự báo và tầm nhìn định hướng tới tương lai. Các chỉ tiêu được xác định trong đó đồ án quy hoạch đô thị được duyệt là căn cứ quan trọng để lập kế hoạch phát triển đô thị. Quy hoạch đô thị xác định rõ địa giới, nguồn lực có thể sử dụng của từng cá nhân và tổ chức được giao quyền xây dựng, khai thác, phát triển đất đai, bất động sản hoặc dịch vụ công cộng đô thị…
Quy hoạch đô thị được thể hiện ở nhiều cấp độ:
- Chiến lược hay quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quốc gia, vùng, thành phố.
- Định hướng phát triển hệ thống đô thị quốc gia và vùng.
- Định hướng phát triển không gian đô thị.
- Quy hoạch sử dụng đất.
- Quy hoạch chung và chi tiết về xây dựng đô thị.
- Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật của đô thị.
Kế hoạch phát triển đô thị (Khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì nó trở thành văn ban quy phạm pháp luật): Kế hoạch phát triển đô thị thường được xác lập theo khung thời gian dài hạn, trung hạn, ngắn hạn và theo các chủ thể quản lý như: kế hoạch cấp nước, cấp vùng, cấp xã. Các kế hoạch phát triển đô thị cần dựa và nhu cầu phát triển của các thị trường đô thị, kết hợp với các công cụ kinh tế – tài chính đô thị để định hướng, kiểm soát và điều tiết tiến trình phát triển đô thị. Kế hoạch phát triển đô thị phải đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đạt mục tiêu nhằm đảm bảo tiến trình thực hiện các chiến lược về quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, và quy hoạch xây dựng đô thị.
Luật pháp: Luật pháp là buộc các cá nhân và tổ chức thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ được quy định trong quá trình quản lý và phát triển đô thị, cũng như đảm bảo công bằng về lợi ích giữa các cá nhân và tổ chức có liên quan trong việc sử dụng các nguồn lực đô thị. Do đó, việc sử dụng công cụ này hiệu quả nhất khi luật pháp được phổ biến giáo dục rộng rãi để các đối tượng và chủ thể quản lý đều thông hiểu và thực thi nghiêm chỉnh, cũng như có các cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực thi và xử lý các vi phạm.
Các phương pháp quản lý
- Phương pháp thống kê, điều tra xã hội học: được sử dụng phân tích tình hình, xác định được xu thế phát triển, các tiến trình, các quy luật vận động và thiết lập phương cách tác động điều chỉnh theo định hướng và mục tiêu mong đợi.
- Phương pháp hành chính: Đây là đặc trưng của quản lý nhà nước để tác động trực tiếp và bắt buộc mọi cá nhân, mọi tổ chức phải tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật; và mọi hành vi vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Phương pháp này thường được áp dụng dựa trên sự phân công, phân quyền rõ ràng để đảm bảo các hoạt động phối kết hợp của các cơ quan quản lý nhà nước và xác lập trật tự, kỷ cương xã hội.
- Phương pháp kinh tế: được coi là phương pháp quản lý mềm dẻo, tạo động lực khiến cho đối tượng quản lý tự thiết lập và lựa chọn mục tiêu phát triển phù hợp với mục tiêu chung của xã hội đô thị, nên nó được Nhà nước ngày càng chú trọng. Phương pháp này cho phép mở rộng sự tham gia của các cá nhân và tổ chức vào các công việc thuộc trách nhiệm kiểm tra, giám sát của Nhà nước để giảm các chi phí quản lý và tính cứng nhắc, mệnh lệnh hành chính đơn thuần, đồng thời có thêm được các giải pháp sáng tạo khác. Phương pháp kinh tế đòi hỏi sự đề cao cao năng lực quản lý và giám sát tiến trình phát triển đô thị một cách minh bạch, công bằng.
- Phương pháp tuyên truyền giáo dục: Việc tuyên truyền giáo dục qua nhiêu kênh để nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức, cơ quan liên quan tới phát triển và quản lý đô thị nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về đô thị.
1.1.4.6. Quản lý nhà nước về một số lĩnh vực chủ yếu ở đô thị ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
(1). Quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị
Nhà nước mà trực tiếp là Chính phủ thống nhất quy định về lập, trình và xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị trong phạm vi cả nước như sau:
- Lập quy hoạch:
+ Bộ Xây dựng lập và thẩm định đồ án quy hoạch chung đô thị loại đặc biệt, loại I, II và các loại khác khi cần thiết.
+ Văn phòng kiến trúc sư trưởng và Sở Xây dựng lập và thẩm định đồ án quy hoạch chung các đô thị còn lại, quy hoạch chi tiết của các đô thị.
- Trình/duyệt:
+ UBND cấp tỉnh trình Chính phủ phê duyệt đồ án quy hoạch chung đô thị loại đặc biệt, loại I và II.
+ Bộ trưởng Bộ Xây dựng phê duyệt quy hoạch chi tiết các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu công nghệ cao và các đồ án quy hoạch khác theo sự ủy quyền của Thủ tướng.
+ UBND các thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện trình UBND cấp tỉnh phê duyệt các đồ án quy hoạch chung các đô thị còn lại (từ loại III đến loại V) và các quy hoạch chi tiết của các đô thị. Trước khi UBND cấp tỉnh phê duyệt các đồ án quy hoạch chung đô thị loại III, IV, quy hoạch chi tiết trung tâm đô thị loại đặc biệt, I, II và các quốc lộ đi qua các đô thị tỉnh lỵ phải có ý kiến của Bộ Xây dựng bằng văn bản.
Trách nhiệm và quyền hạn quản lý quy hoạch, xây dựng và kiến trúc đô thị của các cấp chính quyền:
- Chính phủ thống nhất quản lý quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị trên địa bàn cả nước.
- Các Bộ, ngành có liên quan ở Trung ương giúp Chính phủ quản lý quy hoạch, xây dựng và kiến trúc đô thị trong phạm vi cả nước. Trong đó, Bộ Xây dựng có trách nhiệm ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện các quyết định của Chính phủ về quản lý quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị.
- UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị trên địa bàn mình phụ trách.
- Các sở, ban, ngành của địa phương, trong đó có Sở Quy hoạch Kiến trúc và Sở Xây dựng có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Chính phủ, UBND cấp tỉnh và bộ, ngành về quản lý quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị theo sự ủy quyền của UBND cấp tỉnh.
- Các cơ quan chuyên môn có trách nhiệm giúp UBND các cấp tương ứng quản lý quy hoạch, xây dựng và kiến trúc đô thị theo sự ủy quyền của UBND và các cơ quan chuyên môn cấp trên.
(2). Quản lý nhà nước về bảo vệ cảnh quan và môi trường đô thị
Quản lý nhà nước về cảnh quan đô thị
- Chính quyền đô thị xây dựng định hướng phát triển kiến trúc đô thị mang tính đa dạng trong sự thống nhất, ban hành các chính sách, quy chế và kế hoạch đầu tư phát triển cảnh quan đô thị vừa đảm bảo hiện đại, văn minh, vừa bảo tồn được các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc.
- Các cơ quan chức năng cần xây dựng định hướng kiến trúc cho các thể loại công trình trong đô thị, quy hoạch mỹ quan các đường phố.
- Các cấp chính quyền địa phương cần tăng đầu tư bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, có chính sách hỗ trợ dân duy tu, bảo trì các công trình văn hóa có giá trị, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ của nước ngoài.
- Tăng cường quản lý nhà nước về trật tự xây dựng đô thị, xử lý nghiêm minh các vi phạm trong xây dựng, phá vỡ cảnh quan đã được quy hoạch.
- Các tổ chức và cá nhân khi xây dựng, cải tạo các công trình kiến trúc văn hóa phải đảm bảo được tính lịch sử, văn hóa của công trình và phải được các cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt đồng ý; hạn chế chặt bỏ cây xanh khi xây dựng các công trình mới. ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Quản lý nhà nước về môi trường đô thị
- Nhà nước và các cấp chính quyền các địa phương cần hoạch định chiến lược bảo vệ môi trường trong phạm vi quốc gia cũng như trong từng địa phương, có kế hoạch tăng ngân sách đầu tư.
- Cụ thể hóa Luật Môi trường, ban hành các chính sách, quy chế, quy định cụ thể về quản lý và bảo vệ môi trường đô thị.
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý môi trường đô thị. Nhà nước và chính quyền các tỉnh, thành phố giao việc quản lý nhà nước về môi trường cho Bộ và Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan ban hành hữu quan.
- Quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ môi trường về chuyên môn và nghiệp vụ.
- Thanh tra, kiểm tra, xử phạt nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường đô thị theo luật định, tuyên truyền phổ biến nâng cao ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường sống, khai thác sự đóng góp của các tổ chức xã hội, kinh tế và dân cư.
- Ứng dụng tiến bộ KHCN hiện đại trong việc bảo vệ môi trường, đặc biệt các công nghệ mới trong thu gom, xử lý các chất thải sinh hoạt, hạn chế ô nhiễm môi trường không khí.
(3). Quản lý nhà nước về nhà ở đô thị
Pháp lệnh nhà ở năm 1991, Nghị định 30/CP ngày 5/7/1994 về nhà ở, đất ở; Nghị định 61/CP ngày 5/7/1994 về mua bán, kinh doanh nhà ở; Quyết định số 27/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp ở đô thị và các văn bản pháp quy khác của Trung ương và địa phương là cơ sở pháp lý để quản lý nhà nước về nhà ở đô thị, gồm các nội dung sau:
- Lập quy hoạch và kế hoạch xây dựng phát triển nhà ở đô thị.
- Cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà do UBND cấp tỉnh hay cơ quan quản lý nhà, đất được ủy quyền cấp cho chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp, người thay mặt đại diện hợp pháp cho các tổ chức, người nước ngoài định cư tại Việt Nam có nhà ở hợp pháp.
- Quản lý việc mua bán nhà và chuyển nhượng nhà ở, hình thành và phát triển thị trường nhà ở, thị trường thuê nhà ở chính thức.
- Xây dựng nhà ở, quỹ nhà ở cho đối tượng chính sách ưu đãi hoặc người có thu nhập thấp: Nhà nước quản lý việc huy động, khai thác, xây dựng quỹ hỗ trợ nhà ở cũng như vốn đầu tư xây dựng nhà ở cho các thành phần thuộc diện chính sách, ưu đãi, cho người thu nhập thấp theo hình thức quà biếu, tặng hay hỗ trợ một phần kinh phí.
(4). Quản lý nhà nước về đất đô thị
Cơ sở pháp lý để quản lý đất đô thị là Luật Đất đai năm 2003, các Nghị định số 181, 182, 188, 197 của Chính phủ và các văn bản khác, Nghị định 88/CP ngày 17/8/1994 về quản lý sử dụng đất đô thị… Nội dung quản lý nhà nước về đất đai đô thị bao gồm:
- Điều tra, khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính và bản đồ đất đai đô thị.
- Lập quy hoạch và kế hoạch SDĐ đô thị.
- Giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ đô thị.
- Thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị.
- Làm thủ tục chuyển quyền SDĐ.
- Thống kê, cập nhật các biến động về SDĐ đô thị, chỉnh lý biến động trên bản đồ địa chính.
- Ra các văn bản hướng dẫn quản lý đất ngoại ô nằm trong quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị đã được phê duyệt.
- Thanh tra, kiểm tra giải quyết các khiếu kiện về đất đô thị. Trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đô thị:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nhà đất đô thị trong cả nước.
- Bộ Tài nguyên – Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính giúp Chính phủ ban hành các quy định hướng dẫn về quản lý nhà đất đô thị.
- UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà đất đô thị trong phạm vi mình phụ trách.
- Sở Tài nguyên – Môi trường, Sở Xây dựng và Sở Tài chính giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà đất đô thị theo thẩm quyền được
(5). Quản lý nhà nước về một số lĩnh vực khác ở đô thị
- Quản lý nhà nước về hạ tầng xã hội
Ngoài nhà ở, nhà nước, chính quyền ở các đô thị phải quản lý một số lĩnh vực khác về hạ tầng xã hội, như giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục – thể thao, vui chơi giải trí… Nội dung của quản lý nhà nước về các lĩnh vực trên bao gồm các nội dung sau:
- Soạn thảo và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định cơ cấu tổ chức và đề ra các quy định quản lý đối với từng ngành cụ thể.
- Xây dựng các mục tiêu chiến lược, chương trình và kế hoạch phát triển cho từng ngành, đồng thời đề ra các chính sách, biện pháp thực hiện.
- Đầu tư thích đáng trong việc xây dựng và phát triển, nhất là cho giáo dục và y tế ở các đô thị.
- Khai thác và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, đồng thời có kế hoạch duy tu bảo dưỡng, cải tạo, nâng cấp các cơ sở, hiện đại hoá trang thiết bị và phương tiện.
- Nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ nhằm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức – viên chức, xây dựng các quy định, quy chế đối với đội ngũ bác sĩ, giáo viên,…
- Đổi mới công tác tổ chức và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước.
- Thanh tra, kiểm tra và xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật và các quy định về quản lý nhà nước đối với các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế.
1.1.4.7. Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự an toàn đô thị ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Quản lý trật tự, an toàn đô thị là bảo đảm và duy trì sự ổn định bền vững của đô thị, bao gồm trật tự công cộng, trật tự giao thông, phòng chống cháy nổ, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống thiên tai bão lụt, đăng ký hộ khẩu, tạm vắng, tạm trú, vãng lai, v.v… Nội dung quản lý nhà nước trong các lĩnh vực này chủ yếu là:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy về quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của an ninh và trật tự an toàn đô thị.
- Xây dựng những định hướng, chương trình, mục tiêu và biện pháp để bảo vệ an toàn đô thị, tăng ngân sách và huy động khai thác các nguồn tài chính khác do công tác quản lý an toàn đô thị.
- Tổ chức xây dựng hệ thống các ban ngành, cơ quan quản lý đô thị và lực lượng bảo vệ an toàn đô thị cũng như các phương tiện, thiết bị đủ mạnh để có thể hoàn thành tất cả mọi nhiệm vụ được chính quyền giao cho.
- Thanh tra, kiểm tra, xử phạt các vi phạm về an toàn đô thị, nhất là về trật tự giao thông, trật tự công cộng đô thị và tệ nạn xã hội, v…
- Xây dựng các chính sách và biện pháp giảm vãng lai và trẻ em lang thang ở nông thôn đi vào các đô thị, kết hợp với các địa phương là nơi xuất phát, tìm giải pháp ngăn ngừa.
- Đánh giá quản lý nhà nước đối với đô thị
Đây là vấn đề lâu nay chưa được đề cập thỏa đáng trong các luận văn thạc sĩ. Tác giả thấy rằng đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, Không đánh giá quản lý nhà nước đối với đô thị thì không thể thấy được quản lý nhà nước đối với đô thị có hiệu quả hay không và nếu có thì có đến mức nào. Để rồi tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị trong tương lại.
Việc đánh giá quản lý nhà nước đối với đô thị có những nội dung cơ bản sau đây:
(1). Tính hiệu lực của quản lý nhà nước đối với đô thị
Xem xét các chính sách, quy tắc, quy định, quy chế… mà chính quyền của đô thị đưa ra đi vào cuộc sống đến mức nào. Nếu đi vào cuộc sống càng nhiều thì chứng tỏ quản lý nhà nước đối với đô thị càng có hiệu lực. Một khi các chính sách, quy tắc, quy định, quy chế… mà chính quyền của đô thị đưa ra đi vào cuộc sống được ít thì chứng tỏ quản lý nhà nước đối với đô thị có hiệu lực kém. Lúc đó cần nhanh chóng điều chỉnh chính sách, quy tắc, quy định, quy chế cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển của đô thị.
(1). Tính hiệu quả của quản lý nhà nước đối với đô thị
Hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị phản ánh thông qua hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội của đô thị. Nếu hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội của đô thị càng cao thì chứng tỏ quản lý nhà nước đối với đô thị càng có hiệu quả và ngược lại. Vì thế, nên và cần sử dụng các chỉ tiêu phản ánh về năng suất lao động, tốc độ tang trưởng kinh tế, giảm tỷ lệ người nghèo, tăng tỷ lệ người giàu… để phân tích hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị.
1.2 Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý đô thị
1.2.1 Vấn đề phân quyền và quản lý theo lãnh thổ, đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu chính quyền đô thị
Xu hướng phân quyền là yêu cầu để quản lý xã hội có đủ khả năng bao quát và kiểm soát mọi hoạt động của đô thị hiện đại. Đó chính là việc chính quyền trung ương, chính quyền thành phố giao một phần (hay toàn bộ) quyền lực cho các cấp thấp hơn chủ động tự quyết các lĩnh vực tài chính, quy hoạch, đất đai, nhân sự, cơ cấu kinh tế trên nền của một lộ trình pháp lý thống nhất… Xu hướng mạnh nhất trong phân quyền là chuyển từ quản lý theo ngành dọc sang quản lý theo lãnh thổ. Khi các thành phố, quận thực hiện tự quản càng mạnh thì chính quyền trung ương lại càng có khả năng kiểm soát tốt. Ở hệ thống phân quyền, người có quyền lực cao nhất, lớn nhất và trách nhiệm nặng nhất phải thuộc về cá nhân thị trưởng. Nếu không có chế độ phân quyền thì không sao quản lý hiệu quả đối với đô thị đông dân như trường hợp điển hình Tokyo (Nhật bản) với 27 triệu dân và Seoul (Hàn Quốc) với 17 triệu dân. Ngay ở Singapore, quản lý một thành phố lớn hiện đại thì không nên có tình trạng nghĩa vụ và trách nhiệm chung chung2. Thủ tướng Goh Chok Tong cho rằng, sự thần kỳ của Singapore đạt được là do chính phủ được xây dựng trên ba cột trụ chính: dân chủ, công bằng xã hội và trách nhiệm cá nhân.
1.2.2. Tăng cường dân chủ và sự tham gia của người dân ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Thành phố chỉ phát triển bền vững khi lôi cuốn được tất cả người dân từ thị trưởng tới người bán hàng rong vào quá trình xây dựng, giữ gìn, thực hiện, kiểm soát, điều chỉnh chính sách và hành động phát triển đô thị. Sự tham gia của người dân có cả cấp độ gián tiếp và trực tiếp. Người dân tham gia việc xây dựng các chính sách vĩ mô thường thông qua các đại biểu dân cử, còn đối với các dự án, kế hoạch phát triển cộng đồng ở ngay địa phương thì người dân phải được tham gia trực tiếp vào tiến trình này với tư cách không chỉ là người thụ hưởng mà còn là người tham gia thiết kế và thi công. Trường hợp Philippines, nếu không có sự tham gia của người dân thì Chính phủ Philippines không tài nào tái định cư được khu ổ chuột khổng lồ được coi là lớn nhất châu Á tồn tại hơn 100 năm với 185.000 nhân khẩu trên bãi biển Tondo của thành phố Metro Manila.
1.2.3.Quy hoạch – kiến trúc đô thị
a) Thuỵ Điển
Tại Thuỵ Điển, về quy hoạch và kiến trúc, chính quyền thành phố hết sức lưu ý việc đầu tư xây dựng trong quá trình phát triển đảm bảo mối liên hệ với môi trường, cảnh quan và hệ sinh thái hồ. Hồ Malaren có một hệ thống đường dạo với chiều rộng từ 10-20 mét bao quanh và một hệ sinh thái rừng ôn đới tự nhiên với thảm thực vật phong phú. Về quản lý kiến trúc, các công trình xây dựng đều phải thấp dần về phía bờ hồ để đảm bảo tầm nhìn và mỹ quan. Tất cả nước thải dân dụng, công nghiệp và nước mặt đều được tập trung vào một nhà máy để xử lý trước khi đổ vào hồ. Nhiều tổ chức, nhiều người có quyền ra quyết định song trên thực tế rất khó phân định rạch ròi trách nhiệm thuộc về ai nếu có sự cố xảy ra.
b) Trung Quốc
Hệ thống văn bản pháp luật cũng như bộ máy thi hành pháp luật ở Trung Quốc rất nghiêm khắc, công tác giải phóng mặt bằng được tập trung vốn, triển khai nhanh và đầu tư dứt điểm cho từng dự án. Nên các công trình xây dựng và các tuyến đường trong đô thị được cải tạo, mở rộng và tiến hành theo đúng kế hoạch, quy hoạch được duyệt. Về kinh nghiệm trong quản lý bảo tồn di sản đô thị trong chuỗi điểm du lịch, đó là các biện pháp kiểm soát phát triển khu vực Tây Hồ thuộc Hàng Châu là một ví dụ. ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
c) Singapore
Tại Singapore là một quốc gia – đô thị với hệ thống tập trung cao độ, cả nước chỉ có một tổ chức chịu trách nhiệm về xét duyệt quy hoạch và đầu tư – Cơ quan tái phát triển đô thị. Tính tập trung, công khai và mục đích quy hoạch cùng với công tác quy hoạch kiểm soát và quản lý theo quy hoạch rõ ràng nên quản lý quy hoạch kiến trúc ở Singapore hoạt động rất có hiệu quả.
d) Inđônêsia
Không tách rời quản lý và quy hoạch. Quy hoạch và quản lý như hai mặt của một đồng xu không thể tách rời chúng ra biệt lập được. Vào những năm 1980 của thế kỷ XX, Jakarta (Indonesia) sống dở chết dở vì lượng người từ nông thôn đổ về quá sức chịu đựng, mỗi năm có tới 3,5 triệu người đến Jakarta để tìm kiếm cơ hội đổi đời. Sau khi Chính phủ Indonesia phát triển thêm ba thành phố vệ tinh là Bogor, Tangerang, Bekasi vào năm 1985 xung quanh Jakarta thì dòng chảy về thủ đô bị chặn lại từ xa. Ba thành phố này đã chia sẻ một nửa dân số cho toàn bộ vùng thủ đô (Jakarta: 8.877.321, còn Botabek: 8.254.035). Chính quy hoạch đã cứu Jakarta khỏi thảm họa do quá tải dân số mang lại. Quy hoạch là việc thiết kế nên cách thức vận động và dòng chảy của tất thảy thành phố từ con người đến vật chất (đất đai, phương tiện đi lại, tiền bạc). Di chuyển nhanh hay chậm, phát triển sang đông hay tây, lên trên cao hay chui xuống đất, mệt mỏi hay thư thái, hài hòa hay xung đột phần lớn do bố cục, sắp xếp không gian mà ra. Do vậy quản lý tốt chỉ khi có quy hoạch tốt và quy hoạch tốt tạo điều kiện cho quản lý tốt hơn.
1.2.4. Quản lý đất đai xây dựng đô thị
Hiệu quả quản lý đất xây dựng cần giải quyết tốt ba vấn đề: (i) Nội dung và phương pháp lập và xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị; (ii) Chính sách quản lý đất đai xây dựng đô thị; (iii) Quản lý khai thác đất xây dựng đô thị.
a) Pháp
Luật Quy hoạch quy định dành các khu vực dự trữ ưu tiên cho việc mua đất phục vụ xây dựng nhà ở nhằm tránh các cơn sốt của thị trường, ngăn chặn nguy cơ đầu cơ, đồng thời giải quyết việc tồn tại quá độ trong vòng 15 năm của các bất động sản nằm trong vùng dự trữ. Chính quyền đô thị được mua trước những bất động sản của người có nhu cầu bán, làm quỹ dự trữ để chủ động cho việc thực hiện quy hoạch đô thị. Chính phủ Pháp có sự phối hợp chặt chẽ với các chính quyền địa phương về đầu tư, phát triển đất xây dựng đô thị và thị trường bất động sản. Chính phủ có Ban thư ký về đô thị, là đầu mối giữa chính quyền Trung ương, chính quyền địa phương và các cơ quan hợp tác phát triển công cộng. Khi dự án được xác định, cơ quan hợp tác phát triển công cộng là tổ chức chịu trách nhiệm chuẩn bị đất đai và thực hiện xây dựng hạ tầng cho đô thị mới. Hội đồng liên tỉnh về phát triển đô thị là cơ quan quản lý xây dựng đô thị, xem xét các dự án cấp giấy phép và xây dựng các công trình trong đô thị mới… Việc xây dựng đô thị mới dựa vào hệ thống hành chính hiện có và các nguồn tài chính trong nước là chủ yếu, được hỗ trợ bởi một khung giá đất ổn định đảm bảo cho việc đầu tư lâu dài.
b) Trung Quốc
Tại Trung Quốc, mô hình quản lý đất đô thị được xây dựng bằng việc thành lập một cơ quan hành chính đặc biệt, do một tổ chức thay mặt Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước toàn diện. Tổ chức này có thể do Chính phủ thành lập, cũng có thể là một cơ quan liên chính phủ hay là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo một cơ chế đặc biệt, theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc đầu tư xây dựng nhà ở có thể do doanh nghiệp trong nước hoặc phối hợp với các doanh nghiệp nước ngoài. Đất đai ở Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước, đền bù giải phóng mặt bằng được điều tiết bằng Luật.
1.2.4. Bài học rút ra cho quản lý đô thị đối với thành phố Quảng Ngãi ( Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố )
Dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia, một số bài học được rút ra sau:
- Không tách rời quản lý và quy hoạch. Trong quản lý theo lãnh thổ, áp dụng cơ chế phân quyền gắn với việc đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu chính quyền đô thị.
- Kiểm soát việc thực hiện kế hoạch hoá sử dụng đất gắn với chiến lược quản lý môi trường đô thị hợp lý.
– Giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ môi trường đô thị là yếu tố quan trọng nhất làm cơ sở để duy trì và phát triển môi trường đô thị thích hợp.
Tiểu kết chương 1
Quản lý nhà nước đối với đô thị dưới góc nhìn cơ sở khoa học là vấn đề quan trọng, mang ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế – xã hội một đô thị.
Tuy thế trong những năm vừa qua việc nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với đô thị, nhất là quản lý nhà nước đối với đô thị ở một địa phương chưa được nghiên cứu thỏa đáng. Ở tỉnh Quảng Ngãi việc quản lý đô thị thành phố Quảng Ngãi cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Chính vì vậy, việc làm rõ quan niệm về quản lý nhà nước đối với đô thị, nội hàm của quản lý nhà nước đối với đô thị (nhất là đi sâu làm rõ nội dung chủ yếu để quản lý nhà nước đối với đô thị), làm rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị. Đây là chỗ dựa để nghiên cứu làm rõ vấn đề đánh giá quản lý nhà nước đối với đô thị ở Quảng Ngãi.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn: Hoạt động quản lý nhà nước về đô thị ở Thành phố […]