Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam

Rate this post

Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam nhằm mục đích nhận thấy được tầm quan trọng đó tác giả đã làm bài luận văn và đưa ra đề xuất giải quyết vấn đề ô nhiễm. Hiện nay, song song với nền kinh tế phát triển là môi trường ô nhiễm, Việt Nam đã xây dựng một khung pháp lý phù hợp với các hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và quản lý chất thải rắn nói riêng. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản pháp luật này vẫn còn chưa đủ và thiếu đồng bộ. Ngoài ra, năng lực quản lý chất thải rắn tại các cấp còn rất hạn chế, tại chuyên ngành Kỹ thuật môi trườngđề tài Khóa luận tốt nghiệp Khảo sát hiện trạng quản lý chất thải rắn trên địa bàn huyện Kinh Môn- Hải Dương và đề xuất biện pháp giảm thiểu dưới đây, mong sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu hoàn thành tốt bài luận của mình

MỞ ĐẦU

Môi trường đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của con người nhưng với sự phát triển liên tục của khoa học, công nghệ, quá trình công nghiệp hóa và tăng dân số đã gây nên những biến đổi không nhỏ tới môi trường. Ngày nay ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang nhận được sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới.

Là một quốc gia đang phát triển với hàng loạt các ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, Việt Nam không tránh khỏi những vấn đề liên quan đến sự suy giảm chất lượng môi trường đặc biệt là lượng rác thải phát sinh ra ngày càng gia tăng. Năm 2003, lượng chất thải rắn ra môi trường tại Việt Nam lên tới 13 triệu tấn. Trong đó chất thải rắn đô thị từ các hộ gia đình, nhà hàng, các chợ và khu kinh doanh chiếm tới hơn 80% tổng lượng chất thải phát sinh trong cả nước. Các khu đô thị có dân số chỉ khoảng 24% dân số cả nước nhưng lại phát sinh hơn 50% tổng lượng chất thải rắn cả nước [18].

Huyện Kinh Môn trong những năm gần đây có những hoạt động phát triển kinh tế- xã hội mạnh mẽ. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chất thải phát sinh nhanh chóng cả về số lượng và chủng loại gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới sức khỏe người dân. Yêu cầu đặt ra là cần có một công tác quản lý môi trường hợp lý để phát triển kinh tế một cách bền vững. Tuy nhiên, việc quản lý môi trường tại địa phương hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn và chưa đạt kết quả cao. Nguồn nhân lực còn thiếu và chưa đáp ứng được hoạt động quản lý CTR trong khi khối lượng chất thải loại này đang gia tăng rất nhanh.

Xuất phát từ thực tế trên, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài khóa luận tốt nghiệp là: “Khảo sát hiện trạng quản lý chất thải rắn trên địa bàn huyện Kinh Môn – Hải Dương và đề xuất biện pháp giảm thiểu ”.

Nhiệm vụ của đề tài:

  • Khảo sát hiện trạng chất thải rắn tại huyện Kinh Môn.
  • Khảo sát thực trạng quản lý chất thải rắn tại huyện Kinh Môn
  • Đề xuất một số giải pháp quản lý, xử lý chất thải rắn tại huyện Kinh Môn.

Yêu cầu:

  • Nắm được cơ sở pháp lý về công tác quản lý chất thải rắn.
  • Số liệu điều tra phải trung thực, phản ánh được thực trạng chất thải rắn và thực trạng quản lý chất thải rắn phát sinh tại địa điểm nghiên cứu.
  • Đề xuất các giải pháp để công tác quản lý, xử lý chất thải rắn của địa phương trong thời gian tới đạt hiệu quả và khả

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN

1.1.1. Lý luận về chất thải rắn ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

  • Khái niệm chất thải rắn

Theo nghị định số 59/ 2007/ NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về quản lý chất thải rắn:

CTR là chất thải ở thể rắn, được thải ra từ quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. CTR bao gồm CTR thông thường và

CTR nguy hại.

CTR phát thải trong sinh hoạt cá nhân, HGĐ, nơi công cộng được gọi chung là CTRSH. CTR phát sinh từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác được gọi chung là CTRCN [6].

  • Nguồn gốc hình thành chất thải rắn

Các nguồn chủ yếu phát sinh CTR bao gồm:

 Từ các khu dân cư (chất thải sinh hoạt). Từ các trung tâm thương mại.

 Từ các công sở, trường học, công trình công cộng. Từ các dịch vụ đô thị, sân bay.

 Từ các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp. Từ các hoạt động xây dựng.

 Từ các trạm xử lý nước thải và từ các đường ống thoát nước thành phố.

  • Phân loại chất thải rắn [16]

Tuỳ từng mục tiêu mà CTR được phân chia theo các cách khác nhau.

  • Theo vị trí hình thành: người ta phân chia thành CTR trong nhà, ngoài nhà, trên đường phố, chợ.
  • Theo thành phần hoá học và vật lý: người ta phân biệt theo các thành phần hữu cơ, vô cơ, cháy được, không cháy được, kim loại, phi kim loại, da, giẻ vụn, cao su, chất dẻo,…
  • Theo bản chất nguồn tạo thành: CTR được phân chia thành các loại :
  • CTRSH: là những chất thải liên quan đến các hoạt động con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, trường học, trung tâm dịch vụ thương mại. CTRSH có thành phần bao gồm: Kim loại, sành sứ, thuỷ tinh, gạch ngói vỡ, đất, đá, cao su, chất dẻo, thực phẩm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng, xương động vật, tre, gỗ, lông gà, vải, giấy, rơm, rạ, xác động vật, vỏ rau quả…
  • CTRCN: là các chất thải rắn xuất phát từ hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Các nguồn phát sinh chất thải công nghiệp bao gồm:

  Các phế thải từ vật liệu trong quá trình sản xuất công nghiệp, tro, xỉ trong các nhà máy nhiệt điện.

  Các phế thải từ nhiên liệu phục vụ cho sản xuất.  Các phế thải trong quá trình công nghệ.

  Bao bì đóng gói sản phẩm.

  • Chất thải xây dựng: là các phế thải như đất, cát, gạch ngói, bê tông vỡ do các hoạt động phá dỡ, xây dựng công trình… chất thải xây dựng bao gồm:

 Vật liệu xây dựng trong quá trình dỡ bỏ công trình xây dựng. Đất đá trong việc đào móng trong xây dựng.

 Các vật liệu như kim loại, chất dẻo.

Các chất thải từ các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật như trạm xử lý nước thiên nhiên, nước thải sinh hoạt, bùn cặn từ cống thoát nước thành phố.

  • Chất thải nông nghiệp: là những chất thải và mẫu thừa thải ra từ các hoạt động nông nghiệp, thí dụ như trồng trọt, thu hoạch các loại cây trồng, các sản phẩm thải ra từ chế biến sữa, của các lò giết mổ,…

Theo mức độ nguy hại: CTR được phân thành các loại:

  • Chất thải rắn nguy hại: bao gồm các loại hoá chất dễ gây phản ứng, độc hại, chất thải sinh học dễ thối rữa, các chất dễ cháy nổ hoặc các chất thải phóng xạ, các chất thải nhiễm khuẩn, lây lan,… có nguy cơ đe dọa sức khoẻ con người, động vật và cây cỏ. Có nguồn phát sinh chủ yếu từ hoạt động công nghiệp, nông nghiệp và y tế.

Chất nguy hại do các cơ sở hoá chất thải ra có tính độc cao, tác động xấu tới sức khoẻ, do đó việc xử lý chúng phải có những giải pháp kỹ thuật để hạn chế tác động độc hại đó.

Chất thải nguy hại từ hoạt động nông nghiệp chủ yếu là các loại phân hoá học, các loại thuốc bảo vệ thực vật.

Chất thải y tế nguy hại: là các chất thải có chứa chất hoặc hợp chất có một trong những đặc tính gây nguy hại trực tiếp hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Theo quy chế quản lý chất thải y tế, các loại chất thải y tế nguy hại được phát sinh từ hoạt động chuyên môn trong bệnh viện, trạm xá, trạm y tế. Các thành phần chất thải bệnh viện bao gồm:

 Các loại bông băng, gạc, nẹp, dùng trong khám bệnh, điều trị, phẫu thuật.

Các loại kim tiêm, ống tiêm.

Chất thải sinh hoạt từ các bệnh nhân.

Các chất thải chứa nồng độ cao các chất sau đây: chì, thuỷ ngân, cadimi, arsen,xianua,…

 Các chất thải phóng xạ trong bệnh viện.

  • Chất thải không nguy hại: là các chất thải không chứa chất hoặc hợp chất có một trong các đặc tính gây hại trực tiếp hoặc tương tác thành phần.
  • Ảnh hưởng của chất thải rắn tới môi trường và sức khoẻ cộng đồng
  • CTR làm ô nhiễm môi trường nước:

Các CTR, nếu là chất thải hữu cơ, trong môi trường nước sẽ bị phân huỷ một cách nhanh chóng. Phần nổi lên mặt nước sẽ có quá trình khoáng hoá chất hữu cơ để tạo sản phẩm trung gian, sản phẩm cuối cùng là chất khoáng và nước. Phần chìm trong nước sẽ có quá trình phân huỷ yếm khí tạo ra các sản phẩm như: CH4, H2S, H2O, CO2…và chất trung gian.Những chất trung gian này thường gây mùi thối và độc. Bên cạnh đó, là các loại vi trùng và siêu vi trùng làm ô nhiễm nguồn nước. Nếu CTR là kim loại thì nó gây lên hiện tượng ăn mòn trong nước. Sau đó quá trình oxy hoá xuất hiện, gây nhiễm bẩn cho nguồn nước. ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

  • CTR làm ô nhiễm môi trường đất:

Trong thành phần CTR có chứa nhiều các chất độc, khi CTR được đưa vào môi trường thì các chất độc xâm nhập vào đất sẽ tiêu diệt nhiều loài sinh vật có ích cho đất như: giun, vi sinh vật, nhiều loài động vật không xương sống, ếch nhái … làm cho môi trường đất bị giảm tính đa dạng sinh học và phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại cây trồng. Đặc biệt hiện nay sử dụng tràn lan các loại túi nilông trong sinh hoạt và đời sống, khi xâm nhập vào đất cần thời gian rất lâu mới phân huỷ hết và do đó chúng tạo thành các “bức tường ngăn cách” trong đất hạn chế mạnh đến quá trình phân huỷ, tổng hợp các chất dinh dưỡng, làm cho đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua và năng suất cây trồng giảm sút.

  • CTR làm ô nhiễm môi trường không khí:

Một số CTR trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm thích hợp (350oC và độ ẩm 70- 80 %) sẽ bị biến đổi nhờ hoạt động của vi sinh vật. Kết quả của quá trình này là tạo thành một số khí độc hại gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, việc xử lý CTR bằng nhiệt còn tạo ra một số khí như SO2, NOx, CO,… khi phát tán vào không khí nó sẽ gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ con người.

  • CTR ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng:

Theo đánh giá của chuyên gia, chất thải rắn đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ cộng đồng, nghiêm trọng nhất là đối với dân cư khu vực làng nghề, khu công nghiệp, bãi chôn lấp chất thải và vùng nông thôn ô nhiễm chất thải rắn đến mức báo động.

Nhiều bệnh như đau mắt, bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da, tiêu chảy, dịch tả, thương hàn… do chất thải rắn gây ra.

Đội ngũ lao động của các đơn vị làm vệ sinh đô thị phải làm việc trong điều kiện nặng nhọc, ô nhiễm nặng, cụ thể: nồng độ bụi vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 1,9 lần, khí độc vượt tiêu chuẩn cho phép từ 0,5 đến 0,9 lần, các loại vi trùng, siêu vi trùng, nhất là trứng giun, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ.

Ngoài những ảnh hưởng trên, nếu việc thu gom và vận chuyển rác thải không hết sẽ dẫn đến tình trạng tồn đọng chất thải trong các đô thị, làm mất mỹ quan, gây cảm giác khó chịu cho cả dân cư trong đô thị.

Không thu hồi và tái chế được các thành phần có ích trong chất thải, gây ra sự lãng phí về của cải, vật chất cho xã hội.

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

1.1.2. Lý luận về quản lý chất thải rắn: ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

Khái niệm quản lý chất thải rắn và một số khái niệm liên quan [6]

  • Hoạt động quản lý chất thải rắn: bao gồm các hoạt động quy hoạch quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn, các hoạt động phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu những tác động có hại đối với môi trường và sức khoẻ con người.
  • Thu gom chất thải rắn là hoạt động tập hợp, phân loại, đóng gói và lưu giữ tạm thời chất thải rắn tại nhiều điểm thu gom tới địa điểm hoặc cơ sở được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
  • Vận chuyển chất thải rắn là quá trình chuyên chở chất thải rắn từ nơi phát sinh, thu gom, lưu giữ, trung chuyển đến nơi xử lý, tái chế, tái sử dụng hoặc bãi chôn lấp cuối cùng.
  • Xử lý chất thải rắn là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật làm giảm, loại bỏ, tiêu hủy các thành phần có hại hoặc không có ích trong chất thải rắn, thu hồi, tái chế, tái sử dụng lại các thành phần có ích trong chất thải rắn.
  • Chi phí thu gom, vận chuyển chất thải rắn bao gồm chi phí đầu tư phương tiện, trang thiết bị, đào tạo lao động, chi phí quản lý và vận hành cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn tính theo thời gian hoàn vốn và quy về một đơn vị khối lượng chất thải rắn được thu gom, vận chuyển.

Chức năng của hệ thống QLCTR

  • Chức năng của một hệ thống QLCTR là đảm bảo sao cho phần lớn lượng CTR sau khi thải ra đều được thu gom, vận chuyển và xử lý tại các bãi chôn lấp hay các nhà máy sử lý rác thải tập trung. Có như vậy mới giảm thiểu được khả năng gây ô nhiễm môi trường từ CTR.
  • CTR sau khi thải ra môi trường sẽ được đội ngũ công nhân chịu trách nhiệm thu gom nhặt, tách và lưu giữ tại nguồn. Mục đích của giai đoạn này là phân loại được các loại CTR nhằm thu hồi các thành phần có ích trong rác thải mà chúng ta có thể sử dụng được, hạn chế việc khai thác tài nguyên sơ
  • khai, giảm bớt khối lượng chất thải rắn được vận chuyển và xử lý.
  • Những loại CTR sau khi phân loại nếu không còn giá trị thu hồi thì sẽ được thu gom lại vận chuyển đến nơi tiêu huỷ.
  • Các giai đoạn trong hệ thống QLCTR đòi hỏi phải được diễn ra liên tục và là một chu trình khép kín. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quả trong công tác QLCTR.

Hệ thống QLCTR đô thị tại Việt Nam

  • Mỗi cơ quan, ban ngành sẽ nắm giữ những trách nhiệm riêng trong hệ thống QLCTR, trong đó:
  • Bộ Xây dựng hướng dẫn chiến lược quản lý và xây dựng đô thị, quản lý chất thải.
  • Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm vạch chiến lược cải thiện môi trường chung cho cả nước, tư vấn cho nhà nước trong việc đề xuất luật lệ, chính sách quản lý môi trường quốc gia.
  • Uỷ ban nhân dân thành phố chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các quận, huyện, Sở Tài nguyên & Môi trường và Sở giao thông công chính thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường đô thị, chấp hành nghiêm chỉnh chiến lược chung và pháp luật bảo vệ môi trường của Nhà nước thông qua việc xây dựng các quy tắc, quy chế cụ thể trong việc bảo vệ môi trường thành phố.
  • Công ty Môi trường đô thị là cơ quan trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ xử lý CTR, bảo vệ môi trường thành phố theo chức trách được Uỷ ban nhân dân tỉnh và Uỷ ban nhân dân thành phố giao cho.

Các công cụ trong quản lý môi trường và quản lý chất thải rắn

Hiện nay, tại Việt Nam và một số nước trên thế giới sử dụng những công cụ sau trong công tác quản lý môi trường nói chung và CTR nói riêng:

  • Công cụ luật pháp, chính sách bao gồm: các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch, chính sách môi trường quốc gia, các ngành, địa phương,…
  • Công cụ kỹ thuật quản lý: các công cụ này thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất ô nhiễm trong môi trường. Loại công cụ này bao gồm: đánh giá tác động môi trường, quan trắc môi trường, tái chế và xử lý chất thải.
  • Công cụ kinh tế: là công cụ được áp dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong các hoạt động của tổ chức kinh tế để tổ chức đó đưa ra các hành vi ứng xử có lợi hoặc ít nhất không gây hại tới môi trường. Các công cụ kinh tế rất đa dạng, thí dụ: thuế môi trường, nhãn sinh thái, phí môi trường, cota ô nhiễm, quỹ môi trường….
  • Các công cụ phụ trợ: không tác động trực tiếp vào quá trình sinh ra chất ô nhiễm hoặc điều chỉnh vĩ mô quá trình sản xuất này. Các công cụ phụ trợ có thể bao gồm: GIS, mô hình hoá môi trường, giáo dục và truyền thông về môi trường [6 ].

1.2 Cơ sở thực tiễn:

1.2.1. Thực trạng chất thải rắn và cơ chế quản lý chất thải rắn trên thế giới ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

  • Thực trạng chất thải rắn trên thế giới

Sự phát triển mạnh mẽ, liên tục của các cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng khoa học & công nghệ cùng với quá trình công nghiệp hoá trong thế kỷ vừa qua đã làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc bộ mặt của xã hội loài người cũng như môi trường tự nhiên. Đời sống con người không ngừng được nâng cao, lượng rác thải phát sinh cũng không ngừng gia tăng về cả số lượng và độ độc hại. Theo viện nguyên vật liệu Cyclope và Veolia Proprete( công ty quản lý rác lớn thứ hai thế giới): lượng CTR thu gom trên toàn thế giới từ 2.3- 4 tỷ tấn/năm, lượng CTR này tương đương với sản lượng ngũ cốc (đạt 2 tỷ tấn) và sắt thép (1 tỷ tấn).

Mỹ và châu Âu là hai “ nhà sản xuất” rác đô thị chủ yếu với hơn 200 triệu tấn rác cho mỗi khu vực, kế tiếp là Trung Quốc, thống kê về rác thải Trung Quốc cũng hết sức đáng lo ngại. Quốc gia đông dân nhất thế giới này thải ra khoảng 150 triệu tấn rác mỗi năm, với tỷ lệ rác thải từ các thành phố là 9 % năm 1979 giờ đây đã lên gần 20 %. Hiện đã có 65 % số thành phố Trung Quốc bị bãi rác bao bọc.

Các quốc gia châu Á, cùng với xu hướng phát triển nhanh và khả năng tiêu thụ hàng hoá nhiều hơn, đang sản sinh một lượng rác rất lớn. Trong khi đó, hầu hết các nước này đều chưa trú trọng các giải pháp và công nghệ xử lý rác thải.

  • Cơ chế quản lý chất thải rắn ở một số nước trên thế giới

Tình hình phát sinh và khả năng quản lý, xử lý CTR ở các nước trên thế giới rất khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển, hệ thống quản lý. Ở các nước phát triển, mặc dù lượng rác thải lớn nhưng hệ thống quản lý môi trường của họ rất tốt nên phần lớn rác thải được xử lý trước khi thải ra môi trường. Còn ở các nước đang phát triển, tuy lượng rác thải ra nhỏ hơn nhiều nhưng do hệ thống quản lý môi trường kém, rác thải không được xử lý mà thải trực tiếp ra ngoài môi trường, làm cho môi trường có xu hướng ngày càng ô nhiễm.

Hoa Kỳ: là một nước có nền kinh tế phát triển nhưng cũng là một trong những nước có lượng rác thải lớn nhất thế giới. Theo số liệu công bố của một số tổ chức bảo vệ môi trường ở Mỹ, từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX, lượng CTR đô thị trung bình mỗi năm là hơn 210 triệu tấn và có xu hướng tăng nên.

Tính bình quân mỗi ngày người dân Mỹ thải ra 2 kg rác, gấp 2 lần năm 1960. Trong số hơn 210 triệu tấn CTR này, giấy loại chiếm tỷ lệ 38,1 %, chất dẻo, nhựa là 9,4 %, kim loại 7 %, thuỷ tinh 5,9 %, nguyên liệu gỗ là 5,2 %, cây cỏ 13,4 %, thực phẩm là 10,4 %.

Để hạn chế sự gia tăng CTR ở các thành phố và bảo vệ môi trường, từ nhiều năm qua, Mỹ áp dụng phương châm xử lý tận gốc, đơn giản hoá việc đóng gói sản phẩm, đưa ra các điều luật liên quan buộc các nhà máy, xí nghiệp phải tận dụng phế liệu, rác thải. Thông qua việc áp dụng một loạt các biện pháp, lượng rác thải ở các thành phố của Mỹ đã có xu hướng giảm xuống, bình quân lượng rác thải ra là 1,8 kg/ người/ ngày. Đồng thời với việc khống chế rác thải, phương pháp xử lý rác thải của Mỹ cũng không ngừng được cải tiến. Một số loại rác thải như giấy, thuỷ tinh, chất dẻo và kim loại có thể đưa vào gia công sử dụng. Đến nay khoảng 30% lượng rác thải ở các thành phố của Mỹ đã được đưa vào tái sử dụng [11].

1.2.2. Thực trạng chất thải rắn và cơ chế quản lý chất thải rắn tại Việt Nam ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

  • Thực trạng chất thải rắn ở Vịêt Nam

Theo Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam năm 2004, mỗi năm có hơn 15 triệu tấn rác thải rắn phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau ở Việt Nam. Khoảng hơn 80 % số này (tương đương 12,8 triệu tấn/ năm) là các chất thải rắn phát sinh từ các hộ gia đình, các nhà hàng, khu chợ và khu kinh doanh. Tổng lượng chất thải phát sinh từ các cơ sở công nghiệp mỗi năm khoảng 2,6 triệu tấn (chiếm 17%), các chất thải nguy hại khác (bao gồm: cả chất thải y tế nguy hại, các chất dễ cháy và chất độc hại phát sinh từ các quá trình sản xuất công nghiệp, các loại thuốc trừ sâu, thùng chứa thuốc sâu phục vụ các hoạt động nông nghiệp), chiếm 1 % (khoảng 150.000 tấn) trong tổng lượng rác thải phát sinh tại Việt Nam. Mặc dù phát sinh với khối lượng nhỏ, song nếu không được quản lý tốt thì với các tính chất độc hại, chất thải nguy hại sẽ là mối hiểm hoạ lớn đối với sức khoẻ người dân và môi trường [2].

  • Về CTR sinh hoạt: Theo số liệu thống kê năm 2002 cho thấy lượng rác thải sinh hoạt bình quân khoảng từ 0,6- 0.9 kg/ người/ ngày ở các đô thị lớn và dao động từ 4- 0.5 kg/ người/ ngày ở các đô thị nhỏ. Đến năm 2004, tỷ lệ đó đã tăng tới 0,9- 1,2 kg/ người/ ngày ở các thành phố lớn và 0,5- 0,65 kg/ người/ ngày tại các đô thị nhỏ.
  • Thành phần CTR sinh hoạt bao gồm: chất hữu cơ, cao su, nhựa, giấy, bìa các tông, giẻ vụn, kim loại, thủy tinh, đồ gốm, đất đá, gạch cát. Tỷ lệ phần trăm các chất trong rác thải không ổn định, rất biến động theo mỗi địa điểm thu gom rác, khu vực sinh sống và rác thải sản xuất. Tỷ lệ phần trăm các chất hữu cơ chiếm 40 65 % tổng lượng CTR. Theo kết quả quan trắc, tỷ lệ thành phần nilon, chất dẻo trong rác thải có chiều hướng giảm (còn 3-7 %), ở một số đô thị nhỏ như Lào Cai và SaPa, tỷ lệ chất dẻo thấp ( 1,1 %) đó là do trong những năm gần đây một số công nghệ thu hồi và tái chế chất dẻo đã bước đầu hoạt động và góp phần làm giảm lượng chất dẻo thải ra từ bãi chôn lấp [2], [7].
  • Về CTRCN: Rác thải công nghiệp chủ yếu tập trung ở vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp đô thị phát triển. Khoảng 80 % trong số 2,6 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp phát sinh mỗi năm là từ các trung tâm công nghiệp lớn ở miền Bắc và miền Nam – 50 % lượng CTRCN của Việt Nam phát sinh ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, 30% phát sinh ở vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Thêm vào đó, gần 1.500 làng nghề chủ yếu là tập trung ở các vùng nông thôn miền Bắc mỗi năm phát sinh khoảng 774.000 tấn chất thải công nghiệp không nguy hại [7].
  • Về CTR nguy hại: CTR nguy hại là mối hiểm họa ngày càng lớn. Nguồn phát sinh CTR nguy hại lớn nhất là tại các cơ sở công nghiệp (130.000 tấn/ năm) và các bệnh viện (21.000 tấn/ năm). Lượng CTR nguy hại phát sinh tại các vùng là rất khác nhau, đặc biệt là CTR phát sinh từ hoạt động công nghiệp. Lượng chất thải công nghiệp nguy hại phát sinh từ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm tới 75 % tổng lượng chất thải nguy hại công nghiệp phát sinh của cả nước. Lượng CTRYT nguy hại phát sinh cần được xử lý ước tính 34 tấn/ ngày đêm trong toàn quốc. Trong đó 1/3 lượng CTRYT nguy hại tập trung ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, 2/3 còn lại ở các tỉnh thành khác. Nếu phân theo khu vực thì có 70 % lượng CTRYT nguy hại tập trung ở thành phố, thị xã; 30 % ở các huyện, xã nông thôn và miền núi. Về CTR nông nghiệp nguy hại, lượng CTR chủ yếu phát sinh từ vùng đồng bằng sông Cửu

Cơ chế quản lý chất thải rắn tại Việt Nam.

Rác thải Việt Nam chủ yếu xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Tuy nhiên, phần lớn các bãi chôn lấp ở Việt Nam chưa đạt tiêu chuẩn kỹ thuật vệ sinh môi trường mà chỉ là những bãi rác lộ thiên, không được chèn ép kỹ. Thêm vào đó, phần lớn các đô thị không có phương tiện kỹ thuật đầy đủ và thích hợp để xử lý rác thải nguy hại, công nghiệp và y tế. Cả nước có 12 trong 64 tỉnh, thành phố có bãi rác chôn lấp hợp vệ sinh, đúng kỹ thuật. Nguồn nước ngầm ở nhiều khu vực có bãi chôn lấp rác đang bị ô nhiễm nghiêm trọng [10]. ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

Ở Việt Nam, ngoài các cơ quan tổ chức được nhà nước quản lý như: Công ty Môi trường đô thị, công ty cổ phần dịch vụ thu gom rác, hợp tác xã,…còn các có hoạt động thu gom của tư nhân, ở quy mô nhỏ, tham gia trực tiếp vào việc thu hồi và xử lý rác thải. Đó là hoạt động của những người thu gom đồng nát, buôn phế liệu và tái chế phế liệu. Đây là hoạt động tự phát, quy mô nhỏ nhưng rất quan trọng vì nó góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, tiết kiệm tài nguyên, giảm khối lượng rác chôn lấp, thu hồi vật liệu có giá trị.

Một phần rác thải cháy được mà không có khả năng tái chế thì được xử lý bằng phương pháp đốt. Phương pháp này được áp dụng với quy mô nhỏ và chủ yếu để xử lý rác thải nguy hại, y tế và công nghiệp. Phần rác thải là chất hữu cơ thì được phân loại và đưa về nhà máy để chế biến phân compost. Phần rác thải là phần có thể tái sử dụng như kim loại, giấy, nhựa,… được thu gom và tái chế. Hoạt động này chủ yếu tiến hành do những người bán đồng nát, thu gom phế liệu. Họ thu gom phế liệu tại các HGĐ và các nhà máy rồi bán lại cho nhà máy khác hoặc cơ sở tái chế tư nhân và được tái chế thành các sản phẩm tiêu dùng [9].

Ở các vùng nông thôn Việt Nam, tỷ lệ thu gom rác là rất thấp. Nhiều huyện, thị xã có các hợp tác xã dịch vụ, tổ vệ sinh môi trường do địa phương thành lập, tỷ lệ thu gom thấp trung bình đạt 20 – 40 %. Phần rác thải không được thu gom thì được người dân xử lý bằng cách đốt, tự chôn lấp hoặc vứt bừa bãi, đổ xuống sông hoặc khu đất trống gần nhà. Điều đó ảnh hưởng đến môi trường sống và sức khoẻ của người dân. Một số thị xã và huyện còn chưa có tổ chức thu gom rác thải, chưa có bãi rác tập trung, nếu có thì chỉ là bãi đổ rác lộ thiên, không có quy hoạch cụ thể.

Giải quyết vấn đề CTR là một bài toán phức tạp từ khâu phân loại, tồn trữ, thu gom đến vận chuyển, tái sinh, tái chế và chôn lấp. Biện pháp xử lý CTR mà nước ta áp dụng chủ yếu là chôn lấp nhưng số lượng bãi chôn lấp CTR đạt yêu cầu hiện nay còn rất hạn chế. CTR phát sinh tại các khu công nghiệp được thu gom và xử lý chung với CTRSH làm tồn lưu trong môi trường nhiều hợp chất độc hại, khó phân huỷ. Lượng CTR nguy hại chỉ được thu gom với tỷ lệ khoảng 50- 60 %.

  • Công tác QLCTR hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế [15]

+ Sự phân công trách nhiệm QLCTR giữa các ngành chưa rõ ràng, chưa có một hệ thống quản lý thống nhất riêng đối với chất thải rắn nói chung và CTRCN nói riêng.

+ Cơ chế thực hiện dịch vụ thu gom và quản lý CTR vẫn còn mang nặng tính bao cấp, mặc dù nhà nước ta đã có chính sách xã hội hoá công tác này.

+ Chưa có thị trường thống nhất về trao đổi và tái chế CTR nói chung và chất thải rắn công nghiệp nói riêng, chỉ có một phần nhỏ CTR công nghiệp được thu hồi, tái chế và sử dụng.

+ Phần lớn CTRCN, kể cả CTR nguy hại được thải bỏ lẫn lộn với CTR đô thị và được đưa đến bãi chôn lấp (đa số là chưa hợp vệ sinh).

+ Việc thu gom CTR chủ yếu sử dụng lao động thủ công. Sự tham gia của cộng đồng và của khu vực tư nhân vào việc thu gom và quản lý CTR chưa rộng rãi. Đã có một số mô hình thu gom và xử lý rác thải đô thị của tư nhân và cộng đồng tổ chức thành công, nhưng do vốn đầu tư có hạn nên số lượng và chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng nhu cầu của phát triển bền vững.

+ Thiếu sự đầu tư thoả đáng và lâu dài với các trang thiết bị thu gom, vận chuyển, phân loại xây dựng các bãi chôn lấp đúng quy cách và các công nghệ xử lý chất thải phù hợp.

+ Chưa có công nghệ và phương tiện hiện đại cũng như vốn đầu tư để tái chế chất thải đã thu gom, còn thiếu kinh phí cũng như công nghệ thích hợp để xử lý chất thải nguy hại.

+ Nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường và an toàn sức khoẻ liên quan tới công tác thu gom, xử lý và quản lý CTR vẫn còn đang ở trình độ thấp. Việc thải bừa bãi chất thải rắn ra môi trường gây mất vệ sinh, làm mất mỹ quan đô thị và suy thoái nguồn nước ngầm.

1.3.Tổng quan một số phương pháp xử lý chất thải rắn

1.3.1. Các phương pháp xử lý chất thải rắn của một số nước trên thế giới ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

Hiện nay phương pháp xử lý CTR thường được phân thành các nhóm như: Phương pháp cơ học, phương pháp nhiệt, phương pháp tuyển chất thải, phương pháp hoá lý, phương pháp hoá học, phương pháp sinh hoá,…Trong đó, những phương pháp được sử dụng phổ biến trên thế giới là:

Phương pháp chôn lấp: Chôn lấp hợp vệ sinh là biện pháp tiêu huỷ chất thải được áp dụng rất rộng rãi trên thế giới. Theo công nghệ này CTR được đưa vào các hố chôn lấp có ít nhất hai lớp lót chống thấm, có hệ thống thu gom nước rò rỉ để xử lý, có hệ thống thoát khí, có giếng khoan để giám sát khả năng ảnh hưởng đến nước ngầm.

Việc xây dựng hố chôn lấp phải theo đúng các quy chuẩn thiết kế về kích thước, độ dốc, các lớp chống thấm đáy và vách, xử lý nước rò rỉ, khí gas…

Phương pháp này đơn giản mà hiệu quả, nhưng có nhược điểm là tốn nhiều diện tích, mất nhiều thời gian phân loại rác và nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí cao.

Phương pháp đốt có thu hồi năng lượng: công nghệ đốt là công nghệ dựa trên nguyên tắc tro hoá chất hữu cơ, nhờ các phản ứng hoá học chuyển hoá chúng thành CO2 và H2O. Thường công nghệ này thực hiện trong lò đốt nhiệt độ cao. Nhiệt lượng khoảng 800- 1200oC. Năng lượng của quá trình đốt được thu hồi và cung cấp cho nồi hơi sau đó là lò sởi hoặc nhà máy điện.

Tuy nhiên việc đốt rác dễ sản sinh ra các loại khói độc, nếu không xử lý tốt sẽ gây ô nhiễm môi trường không khí.

Công nghệ này thường được sử dụng ở những nước có nền kinh tế phát triển vì chi phí của nó gấp 10 lần so với chôn lấp hợp vệ sinh.

Phương pháp ủ: phương pháp này chủ yếu để xử lý CTRSH có chứa nhiều chất hữu cơ, nhằm tạo ra phân bón vi sinh để cải tạo đất. Đây là phương pháp ủ tự nhiên có lịch sử khá lâu đời, thích hợp cho qui mô hộ gia đình, trang trại hoặc một khu dân cư. Rác thải được trộn lẫn với phân chuồng ủ đống hoặc cho vào bể kín tạo điều kiện kỵ khí.

Ở một số quốc gia việc xử lý chất thải được thực hiện ngay tại nguồn như Thái Lan, Nhật Bản, Singapo,…Người ta chia rác thành 3 loại và cho chúng vào 3 thùng riêng: những rác thải có thể tái sinh, thực phẩm và chất độc hại. Các loại rác này được thu gom và chở bằng xe ép có màu sơn khác nhau. Rác tái sinh sau khi được phân loại sơ bộ tại nguồn sẽ vận chuyển tới nhà máy phân loại rác để tách ra các loại vật liệu khác nhau và đưa vào các chu trình sản xuất khác. Chất thải thực phẩm được chuyển đến nhà máy chế biến phân vi sinh. các chất còn lại thường được xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Chất thải độc hại được xử lý bằng phương pháp đốt.

1.3.2. Các phương pháp xử lý chất thải rắn ở Việt Nam ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

Phương pháp chôn lấp: đây là phương pháp phổ biến nhất tại Việt Nam do nó tốn ít kinh phí cho công tác xử lý. Tuy nhiên, hầu hết các bãi rác chôn lấp ở Việt Nam là bãi rác hở, không hợp vệ sinh gây ô nhiễm môi trường cho khu vực xung quanh.

Phương pháp ủ: phương pháp này cũng được áp dụng khá phổ biến do trong rác thải sinh hoạt của Việt Nam thì thành phần chất hữu cơ chiếm tỷ lệ rất cao 55- 65 %. Quá trình ủ có thể tiến hành trong cả điều kiện hiếu khí và kỵ khí.

Công nghệ seraphin( Công nghệ xử lý RTSH Việt Nam): Công nghệ này được một số tỉnh trong cả nước áp dụng trong việc xử lý CTR như: Huế, Nghệ An, Hà Nam, Hà Nội,… đây là công nghệ do người Việt Nam sáng chế, có thể xử lý tới 90 % lượng rác thải tái chế thành phân hữu cơ và nguồn nguyên liệu làm vật liệu xây dựng. Vốn đầu tư cho công nghệ seraphin cũng chỉ bằng 30- 40 % các công nghệ nhập khẩu.

Ngoài ra, các chất thải bệnh viện bao gồm bông băng, gạc, các loại kim tiêm, ống tiêm, các chi thể, tổ chức mô cắt bỏ thường sử dụng phương pháp đốt để diệt vi trùng và giảm thiếu phần tro đưa đi chôn lấp. Các thành phần chất phóng xạ, chất dễ cháy, chất độc hại,… được thu gom và xử lý riêng. Hiện nay, bệnh viện Bạch Mai đã xây được hệ thống xử lý rác thải y tế đảm bảo vệ sinh và đang vận hành rất có hiệu quả. Những vấn đề yếu kém trong quy hoạch khu xử lý CTR ở Việt Nam Từ những thông tin thu thập ở nhiều địa phương, các vấn đề yếu kém chính trong quy hoạch các khu xử lý CTR ở Việt Nam được tổng hợp ở dưới đây:

  • Thiếu quy hoạch lâu dài về cơ sở hạ tầng xử lý
  • Vị trí bãi rác thường là các vùng đất “ kém hiệu quả”.
  • Gần các điểm văn hoá, di tích.
  • Không tham vấn ý kiến cộng đồng.
  • Thiếu quy hoạch các khu xử lý CTR cho đô thị nhỏ và các huyện.

CHƯƠNG II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1.Nội dung nghiên cứu ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

  • Khảo sát điều kiện tự nhiên- kinh tế – xã hội huyện Kinh Môn
  • Hiện trạng chất thải rắn phát sinh tại huyện Kinh Môn
  • Thực trạng quản lý chất thải rắn tại huyện Kinh Môn
  • Đề xuất một số giải pháp quản lý và xử lý chất thải rắn tại huyện Kinh Môn

2.2.Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp

  • Thu thập số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của huyện.
  • Thu thập số liệu về hiện trạng môi trường, tình hình phát sinh chất thải rắn y tế, công nghiệp, sinh hoạt.
  • Thu thập các báo cáo về môi trường của huyện đã được công bố, niên giám thống kê.
  • Tìm thông tin từ tài liệu đã công bố (sách, báo, báo cáo khoa học, internet,…) về các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu.

2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp

Phương pháp điều tra phỏng vấn

  • Tiến hành xây dựng 2 loại phiếu dành cho 2 đối tượng:
  • Phiếu điều tra cho hộ dân.
  • Phiếu điều tra cho cán bộ quản lý môi trường tại địa phương.
  • Nội dung điều tra tập trung vào các vấn đề:
  • Đánh giá tình hình phát sinh chất thải rắn sinh hoạt.
  • Tình hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
  • Vấn đề môi trường tại địa phương.
  • Những biện pháp môi trường đã và đang được áp dụng.
  • Dung lượng mẫu:
  • Chọn 3 điểm đại diện trên địa bàn huyện bao gồm thị trấn Kinh Môn, thị trấn Minh Tân, xã Hiệp Sơn, mỗi điểm chọn 30 hộ đại diện để phỏng vấn.
  • 1 phiếu điều tra cho cán bộ quản lý môi trường.

Phương pháp quan sát ( Khóa luận: Hiện trạng hoạt động quản lý chất thải rắn ở Việt Nam )

Khảo sát địa điểm nghiên cứu và thu thập số liệu về:

  • Cách thức thu gom, phân loại chất thải rắn.
  • Địa điểm thu gom và xử lý.
  • Phương tiện thu gom vận chuyển và tần suất thu

2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu được thống kê và xử lý bằng phần mềm Excel, kết quả được trình bày bằng bảng số liệu, bản đồ, biểu đồ.

Mời bạn tham khảo thêm:

→ Khóa luận: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn ở Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993