Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta

Rate this post

Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta là bài luận tốt nghiệp mà tác gỉa đã dành rất nhiều thời gian, kiến thức vào. Nước là một loại tài nguyên được tái tạo theo quy luật thời gian và không gian. Nhưng ngoài quy luật tự nhiên, hoạt động của con người đã tác động không nhỏ đến vòng tuần hoàn của nước. Chính vì thế mà tác giả đã chọn Đề tài: Tài nguyên nước mặt Thành phố Hải Phòng và công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường nước làm bài luận văn tốt nghiệp.

Nội dung chính

2.1. TỔNG QUAN MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

2.1.1. Tổng quan môi trường nước mặt tại Hải Phòng:

Sông Đá Bạc – Bạch Đằng dài hơn 32 km, là nhánh của sông Kinh Môn đổ ra biển ở cửa Nam Triệu, là ranh giới giữa Hải Phòng với Quảng Ninh. Phục vụ cho giao thông vận tải đường thủy và cung cấp nước tưới tiêu.

Sông Văn Úc dài 35 km chảy từ Quí Cao, đổ ra biển qua cửa sông Văn Úc làm thành ranh giới giữa hai huyện An Lão và Tiên Lãng. Phục vụ cho giao thông vận tải, cung cấp nước tưới tiêu cho nông nghiệp.

Sông Thái Bình có một phần là ranh giới giữa Hải Phòng với Thái Bình.

Phục vụ cho giao thông vận tải và tưới tiêu.

Hải Phòng có 3 hệ thống sông cung cấp đầu vào sản xuất nước sạch phục vụ đời sống xã hội của thành phố là sông Rế, sông Đa Độ và sông Giá, với trữ lượng hơn 21 triệu m3. Hiện các sông này đều đứng trước nguy cơ ô nhiễm cao, hai bên bờ bị lấn chiếm.

Sông Rế dài hơn 10 km, thuộc địa bàn huyện An Dương, là sông cung cấp nước ngọt cho nội thành Hải Phòng qua trạm bơm Quán Vĩnh. Ngoài việc cung cấp nước tưới cho 10.000 ha cây trồng trên địa bàn, dòng sông này còn là nguồn nước ngọt chủ yếu cung cấp nước thô cho Nhà máy nước An Dương để sản xuất nước sạch phục vụ khu vực nội thành. Tuy nhiên, sông đang bị lấn chiếm hai bên bờ và ô nhiễm nghiêm trọng. Theo Công ty TNHH MTV quản lý thủy lợi An Hải, chỉ riêng đoạn sông dài 9km chảy qua địa bàn huyện An Dương có tới 116 trường hợp vi phạm, trong đó trọng điểm là khu vực thị trấn huyện. Đáng nói, mức độ vi phạm ngày càng tăng nghiêm trọng, không chỉ xây nhà ven bờ mà còn san lấp sông, khiến lòng sông bị teo lại chỉ còn rất nhỏ.

Ngoài ra, sông Rế đang biến thành hệ thống cống hở để xả thải nước sinh hoạt cho hàng trăm hộ dân sinh sống cạnh bờ sông. Qua khảo sát thực địa của Công ty TNHH MTV khai thác công trình thuỷ lợi An Hải, một số doanh nghiệp thép xả trực tiếp nước thải xuống mương dẫn nước ra kênh sông Mai, kênh dẫn cấp 1 nối với hệ thống kênh trục An Kim Hải. Đây là kênh dẫn nước phục vụ tưới tiêu nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân các phường Hùng Vương, Quán Toan (quận Hồng Bàng) và một số xã thuộc huyện An Dương; cấp nước thô cho Nhà máy nước Vật Cách. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng biểu hiện rõ khi nguồn nước ở khu vực này xuất hiện có màu vàng đậm của ô-xít sắt; lắng đọng kết tủa dẫn đến hiện tượng đọng bùn đất ở hai bờ và đáy kênh. ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Sông Đa Độ dài gần 50 km là hệ thống thủy nông lớn nhất Hải Phòng hiện nay. Ngoài cung cấp nước phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp cho các huyện An Lão, Kiến Thụy và các quận Kiến An, Dương Kinh, Đồ Sơn, qua hai nhà máy nước Sông He, Cầu Nguyệt. Mỗi năm, trên 7 triệu m3 nước của dòng Đa Độ phục vụ sản xuất công nghiệp và dân sinh của thành phố. Tuy nhiên, hệ thống này cũng đang bị lấn chiếm bởi hơn 350 hộ dân hai bên bờ và nguồn nước bị ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.

Hiện chất lượng nguồn nước bị nhiễm mặn, nhiễm phèn và có độ cứng cao, hàm lượng chất hữu cơ, dầu quá tiêu chuẩn cho phép, do nước thải đồng ruộng mang theo dư lượng hoá chất của thuốc bảo vệ thực vật, phân đạm, do nước thải công nghiệp, đô thị và từ các hoạt động giao thông thuỷ gây ra. Năm 2010, lực lượng cảnh sát môi trường phát hiện 5 doanh nghiệp sản xuất rau câu (chế biến aga từ tảo biển) và hạt nhựa tại khu vực Quán Rẽ (xã Mỹ Đức, huyện An Lão) trong quá trình sản xuất thải các hoá chất tẩy rửa, chế biến rau câu và hạt nhựa không qua hệ thống xử lý ra thẳng sông Đa Độ, gây ô nhiễm nguồn nước thô cung ứng cho các nhà máy nước.

Ngoài ra, dọc tuyến sông này, hiện có hàng chục nghĩa trang, bãi rác ven sông thải chất thải độc hại ra khu vực lòng sông. Qua quan trắc môi trường của cơ quan chức năng, một số chỉ tiêu môi trường ở sông Đa Độ vượt ngưỡng cho phép. Điển hình là chỉ tiêu vi khuẩn coliform vượt ngưỡng cho phép gần 5 lần; hay chỉ tiêu về độ ôxy hóa vượt ngưỡng cho phép 8-9 lần.

Sông Giá (Thủy Nguyên) dài 19 km, là sông cung cấp nước ngọt cho nội thành Hải Phòng, hiện được đánh giá là sông có chất lượng nước tốt nhất và sạch nhất Hải Phòng. Tuy nhiên, nỗi lo mới xuất hiện khi trong quá trình thi công xây dựng dự án tổ hợp Resort, Sông Giá có tình trạng đất đá, dầu mỡ của xe vận chuyển vật liệu bị rơi, vãi xuống sông, nhất là khi mưa xuống, rất nhiều bùn, đất, đá… trôi xuống sông. Bên cạnh đó, việc chăm sóc cỏ sân gôn sử dụng không ít hóa chất. Nếu doanh nghiệp không có phương án thu gom, xử lý nước thải hiệu quả, mức độ ảnh hưởng sông Giá là rất lớn. Cùng với đó là tình trạng một số địa phương ven sông hình thành bãi rác ven sông Giá, gây ô nhiễm nguồn nước…

2.1.2. Các con sông chảy qua nội thành Hải Phòng: ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Sông Cấm : dài 31 km, từ ngã ba sông Kinh Môn đến Cửa Cấm. Sông rộng trung bình 350 m vào mùa khô và 550 m vào mùa mưa, sông sâu 8 m. Sông Cấm là đoạn cuối của sông Kinh Môn, một nhánh chính của sông Thái Bình. Sông Cấm là ranh giới giữa huyện Thuỷ Nguyên và huyện An Dương, giữa huyện Thuỷ Nguyên và nội thành, giữa thành phố Hải Phòng và tỉnh Hải Dương. Sông Cấm chảy vào địa phận Hải Phòng ở thôn Trà Te thuộc xã An Sơn, huyện Thuỷ Nguyên. Đổ ra biển ở Cửa Cấm, gần làng Cấm, tức Gia Viên cũ. Từ thôn Trà Te đến thôn Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thuỷ Nguyên gặp sông Kinh Môn chia ranh giới tỉnh Hải Dương và Hải Phòng. Theo hướng cũ chảy tiếp, từ đây sông nằm hoàn toàn trong địa phận Hải Phòng. Bên trái là các xã Cao Nhân, Kiền Bái, Hoàng Động, huyện Thuỷ Nguyên, bên phải là các xã Đại Bản, An Hồng, Nam Sơn, huyện An Dương, lại đổi hướng chảy sang đông, đến xã Dương Quan, huyện Thuỷ Nguyên tách một dòng chảy qua phía đông là sông Ruột Lợn còn gọi là sông Vũ Yên, nhập vào sông Bạch Đằng tại ngã ba Nam Triệu. Hằng năm, sông Cấm đổ ra biển 10-15 triệu m3 nước và 2 triệu tấn phù sa bồi cho 3 phường Đông Hải, Nam Hải, Tràng Cát, quận Hải An ở phía nam; ở phía đông cùng với sông Bạch Đằng bồi nên đảo Đình Vũ. Cảng Đoạn Xá ở hữu ngạn sông Cấm. Cùng với các sông Bạch Đằng, Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình, Tam Bạc,… Sông Cấm có vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển thành phố Hải Phòng.

Sông Hạ Lý dài 1.300m, rộng trung bình 100m, sâu trung bình 6m, tốc độ dòng chảy trung bình 10,6m/s, được đào vào những năm 1894-1900, nhằm mở lối từ sông Cấm đến sông Tam Bạc và sông Lạch Tray. Sông tạo sự thuận lợi về đường thuỷ trong nội thành Hải Phòng. Thời Pháp thuộc, hai bên bờ sông có nhiều nhà máy như Nhà máy xi măng, Nhà máy phốt phát, Nhà máy xay xát gạo…

Sông Lạch Tray là sông nhánh của sông Văn Úc, dài 43 km, rộng trung bình 120 m, sâu trung bình 4 m, tốc độ dòng chảy trung bình 0,7 m/s. Bắt nguồn từ thôn Quán Trang, xã Bát Trang, huyện An Lão, đổ ra biển tại cửa Lạch Tray, phường Tràng Cát, quận Hải An; nối sông Văn Úc với sông Thái Bình, làm ranh giới giữa thành phố Hải Phòng và tỉnh Hải Dương, cũng là ranh giới giữa huyện An Dương, quận Kiến An, huyện Kiến Thuỵ; chia huyện An Dương thành 2 khu vực phía tây có 7 xã, phía đông 15 xã. Đoạn sông Lạch Tray ở phía nam thành phố, thuộc địa bàn quận Lê Chân và quận Ngô Quyền. Thuận lợi cho giao thông vận tải và cung cấp nước cho nông nghiệp.

Sông Tam Bạc dài 11 km, rộng trung bình 80m, sâu trung bình hơn 3m, là một nhánh của sông Lạch Tray. Bắt đầu từ thôn Tam Bạc, huyện An Dương, đổ ra sông Cấm tại cửa Ninh Hải. Tên sông gọi theo tên một làng ở đầu nguồn. “Trạm Bạc” nghĩa là vụng sông sâu, thuyền bè có thể đậu; từ

cuối thế kỉ 19 trở về trước, là đường giao thông quan trọng. Giới hạn và độ dài của sông Tam Bạc phần thuộc địa phận nội thành dài 2.500 m gồm hai đoạn: từ sông đào Lạch Tray đến sông đào Hạ Lý dài 700 m; từ sông đào Hạ Lý đến sông Cấm, dài 1.800 m. Đoạn sông Tam Bạc từ cầu Rế đến sông

Cấm, dài 11.000 m. Sông Tam Bạc rộng trung bình 80 m, sâu 3,25 m, tốc độ dòng chảy trung bình 0,6 m/s. Sông Tam Bạc có vị trí đầu tiên thuận lợi cho việc đầu tư buôn bán.

2.1.3. Điều kiện kinh tế – xã hội và các quy hoạch phát triển ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

  • Điều kiện kinh tế – xã hội:

+ Dân số, lao động và mức sống: Tổng dân số thành phố Hải Phòng khoảng 1,83 triệu người, với mật độ dân số trung bình 1.206 người/km2.

+ Các hoạt động kinh tế chủ yếu ở khu vực ven bờ: Cảng và giao thông thủy, công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, thủy sản, du lịch.

  • Các quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020 gắn với việc bảo vệ môi trường:

Tình hình kinh tế – xã hội thành phố Hải Phòng trong những năm qua ổn định và phát triển với mức tăng trưởng kinh tế khá cao, gấp trên 1,5 lần so với mức tăng trưởng bình quân chung của cả nước, năm sau cao hơn năm trước.

Trong suốt 3 năm gần đây, tăng trưởng kinh tế luôn giữ ở mức trên 10%, năm 2009 tăng 12,51% và năm 2010 dự báo đạt xấp xỉ 13%; quy mô nền kinh tế năm 2010 so với năm 2006 đã gấp 5,9 lần; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế dịch vụ đã chiếm trên 51% trong tổng GDP. Thành phố được Chính phủ công nhận là đô thị loại I, đô thị trung tâm cấp Quốc gia (Quyết định số 92/2003/QĐ-TTg ngày 09/5/2003 của Thủ tướng Chính phủ); đô thị không ngừng được mở rộng và phát triển, từ 3 quận, nay đã có 8 quận.

Hệ thống cảng trên địa bàn – một lợi thế của thành phố không ngừng được đầu tư, mở rộng đã phát huy tốt năng lực sản xuất, sản lượng hàng qua cảng năm 2010 dự kiến đạt trên 30 triệu tấn, năm 2011 sẽ cơ bản khai thác hết công suất thiết kế là khoảng 35-37 triệu tấn hàng. Bộ mặt đô thị có nhiều đổi mới, đang hình thành dáng vóc của một đô thị ngày càng khang trang, hiện đại với nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật lớn cho nền kinh tế hiện đại như giao thông, hệ thống cảng biển, thông tin liên lạc, điện lực,… đã và đang được hoàn thành đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả; cùng với đó là tốc độ phát triển nhanh về nhà ở, phát triển các khu đô thị mới, các trung tâm thương mại hiện đại, các trung tâm du lịch – dịch vụ….

Đặc biệt là một loạt các công trình hạ tầng kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng đối với thành phố và đất nước như: các dự án đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, cầu Đình Vũ – Cát Hải, Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện, nâng cấp sân bay Cát Bi thành sân bay quốc tế – đủ điều kiện là dự bị cho sân bay Nội Bài, Cầu Rào 2, Cầu Khuể. Khu kinh tế Đình Vũ –

Cát Hải, Khu đô thị hiện đại và khu công nghiệp công nghệ cao 1.200 ha tại Bắc Sông Cấm của Singapore, dự án công nghệ cao của tập đoàn General Electrics (GE) – Mỹ, dự án công nghệ cao quy mô lớn của Tập đoàn Hồng Hải (Đài Loan)… đã và sẽ tạo cho Hải Phòng nhiều thời cơ, thuận lợi mới cho bước phát triển ở tầm cao mới.

Văn hoá – xã hội có bước chuyển biến khá rõ nét, góp phần quan trọng không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; thành phố đã vận động, đóng góp kinh phí xây nhà mới để xoá 6.500 ngôi nhà tranh vách đất cho các hộ nghèo; công tác giáo dục-đào tạo phát triển, nguồn nhân lực được quan tâm, Thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học năm 2008. ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Hoạt động y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ, nhất là ở khu vực nông thôn, 100% số xã đã có bác sĩ; quan tâm chăm sóc các đối tượng chính sách, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, y tế, khoa học công nghệ, nước sạch nông thôn,. có nhiều chuyển biến tích cực.

Gắn với việc phát triển kinh tế – xã hội, công tác bảo vệ môi trường được hết sức quan tâm, góp phần phát triển thành phố Hải Phòng nhanh và bền vững. Công tác quản lý về bảo vệ môi trường thành phố Hải Phòng đã có những chuyển biến tích cực, đi vào nề nếp cùng với việc nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương, cán bộ và nhân dân thành phố, tập trung vào công tác xây dựng các cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền của địa phương hỗ trợ, xử lý những trọng điểm ô nhiễm, từng bước thực hiện việc đổi mới công nghệ, di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm ra khỏi khu vực đô thị, đầu tư các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất; thường xuyên tiến hành các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường.

Đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội hoá và đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường; thực hiện việc nâng cao năng lực quản lý, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về môi trường gắn với công tác đẩy mạnh cải cách hành chính… đã góp phần cải thiện đáng kể chất lượng môi trường thành phố.

Bên cạnh việc đầu tư phát triển kinh tế xã hội, Hải Phòng luôn quan tâm tới công tác bảo vệ môi trường và coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Hải Phòng đã xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 trở thành thành phố sạch – xanh, các thiệt hại về môi trường hiện có giảm xuống mức thấp nhất; các khu vực bị suy thoái được phục hồi; các tác động có hại đến hạnh phúc của con người và thiên nhiên được ngăn ngừa; tài nguyên, năng lượng được sử dụng và quản lý tiết kiệm, có hiệu quả; không gian cho sự phát triển các hệ thống tương lai, các loài hoang dã và cảnh quan của thành phố được đảm bảo.

Thời gian qua, với sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư của Chính quyền và sự nỗ lực tham gia của nhân dân, hoạt động bảo vệ môi trường của thành phố Hải Phòng thu được những kết quả đáng ghi nhận, thể hiện trên các mặt:

Quản lý Nhà nước về Bảo Vệ Môi Trường: Trên cơ sở Luật Bảo vệ môi trường và chỉ đạo của Trung ương, thành phố Hải Phòng đã có những chủ trương, quyết sách, văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện Luật và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường phù hợp với điều kiện của địa phương, Uỷ ban nhân dân thành phố đã phê duyệt 8 chương trình hành động bảo vệ môi trường của thành phố Hải Phòng,

“Chiến lược bảo vệ môi trường thành phố Hải Phòng đến năm 2020” nhằm không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khoẻ nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững với nội dung hoạch định các vấn đề cơ bản về bảo vệ môi trường đô thị; Bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp; trong phát triển du lịch; bảo tồn thiên nhiên và các hệ sinh thái; Bảo vệ môi trường biển; môi trường nông thôn; môi trường – sức khoẻ và quản lý nhà nước về Bảo vệ môi trường. Triển khai đầu tư Chương trình nước sinh hoạt nông thôn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2015 – 2020 nhằm tăng cường chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn đặc biệt nâng cao sức khoẻ trẻ em và phụ nữ, giảm tỷ lệ các bệnh liên quan đến nguồn nước; tăng cường cơ sở hạ tầng nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện phát triển bền vững trong nông nghiệp nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị,… phấn đấu đến năm 2020 có 95% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch sinh hoạt với lượng bình quân 55 – 60 lít/người/ngày.

Thành phố cũng đã xây dựng Kế hoạch xử lý các khu vực ô nhiễm trên địa bàn Hải Phòng với những giải pháp cụ thể như hoàn thành việc xử lý 8 khu vực trọng điểm: khu vực Thượng Lý, đảo Cát Bà, khu vực Tràng Cát, khu vực núi Tiên Hội, khu vực huyện đảo Bạch Long Vỹ, khu vực Máy Chai – quận Ngô Quyền, khu công nghiệp Nomura, khu du lịch Đồ Sơn… Hệ thống quản lý Nhà nước về Bảo vệ môi trường được thiết lập và ngày càng được tăng cường về năng lực hoạt động, trang bị hệ thống phòng thí nghiệm phân tích và quan trắc môi trường.

Tháng 10 năm 2005 Trung tâm Quan trắc môi trường đã được thành lập và tại mỗi quận, huyện, thị xã bố trí 1 cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường, điều này đã góp phần đưa công tác quan trắc và phân tích môi trường hoạt động ngày càng có hiệu quả. Để nắm rõ, kịp thời có các biện pháp giảm thiểu, ngăn chặn ảnh hưởng của sản xuất kinh doanh đến môi trường, Thành phố tiến hành tổng điều tra môi trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng báo cáo hiện trạng môi trường từng năm. ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Tiến hành thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường, lập bản kê khai về môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa ô nhiễm đối với các dự án cũng như các cơ sở đang hoạt động. Công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường được duy trì thường xuyên và dần đi vào nề nếp. Thành phố kiên quyết xử lý các vụ vi phạm nghiêm trọng Luật Bảo vệ môi trường, tập trung chỉ đạo kiên quyết giải quyết dứt điểm nhiều vụ nhập đồ phế thải vi phạm Luật Bảo vệ môi trường qua cửa khẩu cảng Hải Phòng, buộc vận chuyển nhiều hàng hóa có tính chất rác thải công nghiệp vi phạm công ước Basel về bảo vệ môi trường về nơi xuất phát,…

Tuy ngân sách còn khó khăn nhưng hàng năm Thành phố đều dành hàng trăm triệu đồng đầu tư cho các hoạt động bảo vệ môi trường, đồng thời tích cực tìm kiếm và đa dạng hoá nguồn vốn trong nước (vốn địa phương, vốn Trung ương) và đặc biệt là những hỗ trợ của nước ngoài đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường. Hải Phòng là 1 trong 4 thành phố triển khai Dự án tăng cường năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường do Canada tài trợ – VCEP; Dự án hỗ trợ kỹ thuật ODA về cải thiện điều kiện môi trường đô thị (MEIP) Hải Phòng; Dự án về quản lý tổng hợp môi trường biển và ven biển đông;

Dự án hỗ trợ cải cách hành chính thí điểm tại Hải Phòng – do chương trình phát triển Liên hiệp quốc và Chính phủ Hà Lan đồng tài trợ; Dự án nghiên cứu kế hoạch cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường thành phố Hải Phòng (do cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản – JICA phối hợp thực hiện), Dự án cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường đô thị, Dự án Thành phố xanh của Hàn Quốc, Dự án JBIC về sản xuất sạch hơn…

Công tác phòng chống, giảm thiểu ô nhiễm môi trường: Thành phố thường xuyên tổ chức kiểm soát ô nhiễm tại các cơ sở, đồng thời tiến hành điều tra, phân loại các cơ sở sản xuất về mặt ô nhiễm môi trường để có kế hoạch quản lý và đề xuất các giải pháp xử lý, rà soát, cấp giấy chứng nhận môi trường. Thực hiện chương trình hành động quốc gia thực hiện Chỉ thị 36/CT-TW (ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước) do Bộ Khoa học và công nghệ chủ trì, thành phố cũng đã hoàn thiện kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Cụ thể đã đóng cửa bãi rác Thượng Lý; di chuyển Công ty xi măng Hải Phòng, Công ty đúc đồng, Công ty thiết bị áp lực và vật liệu xây dựng, phân xưởng A2 của Công ty cơ khí Duyên Hải, cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc VIC ở Hạ Lý… Thành phố đang phát triển các khu, cụm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp di chuyển địa điểm ra khỏi nội thành. Nghiên cứu và xây dựng phương án phòng chống và ứng cứu sự cố tràn dầu của thành phố và một vài cơ sở có nguy cơ cao về tràn dầu; Thành phố ưu tiên xem xét, triển khai các dự án trồng rừng phòng hộ, rừng ngập mặn, bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn lợi hải sản…; Các sự cố môi trường được thành phố tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành liên quan giải quyết kịp thời, dứt điểm, không để lại hậu quả xấu: ngộ độc thức ăn tại một số cơ sở ; ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo cán bộ, chuyên gia về lĩnh vực Bảo Vệ Môi Trường: Công tác nghiên cứu khoa học và điều tra cơ bản được triển khai liên tục với sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nghiên cứu trung ương và các chuyên gia trong lĩnh vực bảo vệ môi ttrường ở trong và ngoài nước. Chương trình nghiên cứu khoa học và điều tra cơ bản về bảo vệ môi trường là 1 chương trình Khoa học công nghệ có mục tiêu của thành phố. Ngân sách dành cho các đề tài thuộc lĩnh vực này ngày càng tăng (khoảng 800 triệu đến 1200 triệu/năm).

Thành phố đã kết hợp với các cơ quan nghiên cứu của Trung ương thực hiện 34 đề tài điều tra cơ bản và bảo vệ môi trường: Điều tra ô nhiễm nước ngầm, điều tra ô nhiễm công nghiệp và đô thị Hải Phòng, điều tra ngập lụt đô thị Hải Phòng, điều tra an toàn bức xạ, điều tra nghiên cứu và đánh giá chất lượng, trữ lượng khoáng sản, tài nguyên sinh vật biển… Hoạt động nghiên cứu khoa học còn tập trung giải quyết một số vấn đề về mô hình quản lý môi trường ở các cấp, mô hình phòng chống, xử lý sự có môi trường, các công nghệ xử lý ô nhiễm…; đồng thời cũng nghiên cứu sản xuất các sản phẩm bảo vệ môi trường như: thiết bị hút bể phốt cỡ nhỏ phù hợp với điều kiện sử dụng Việt Nam, các sản phẩm từ vật liệu thay thế gỗ, phao ngăn dầu, giấy thấm dầu, hoá chất xử lý nước…

Xây dựng và triển khai đề án Bảo vệ môi trường Hải Phòng đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020… Các kết quả nghiên cứu đóng góp những luận cứ khoa học về điều kiện tự nhiên và hiện trạng môi trường của thành phố, làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch bảo vệ đa dạng hệ sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của thành phố cũng như quy hoạch của thành phố trong tương lai. Ngoài việc cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo ngắn ngày ở trong và ngoài nước, Thành phố cũng đã mở lớp đào tạo cử nhân môi trường tại trường Đại học hàng hải, trường Đại học dân lập Hải Phòng,… Đây là nguồn bổ sung trực tiếp cho lực lượng cán bộ hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của thành phố trong thời gian tới.

Công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về Bảo Vệ Môi Trường: Công tác tuyên truyền, phố biến kiến thức, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường được hết sức chú trọng và được triển khai bằng nhiều hình thức: Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản các chuyên san, các tài liệu tuyên truyền: tờ rơi, tài liệu tập huấn… về môi trường, tổ chức các cuộc thi ảnh xanh – sạch – đẹp, thi sáng tác các tác phẩm báo chí về môi trường, tổ chức toạ đàm giao lưu, hội thảo khoa học, lớp tập huấn nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, tham gia triển lãm môi trường Việt Nam, thi sáng tác ca khúc, tham dự Cuộc thi phim về bảo vệ môi trường do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường phát động,…

Tổ chức các hoạt động hưởng ứng Tuần lễ quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường (29/4-6/5), Ngày môi trường thế giới (5/6), Chiến dịch làm sạch thế giới (21 – 23/9), Ngày đa dạng sinh học…thu hút sự quan tâm của các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã hội và sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân. Bước đầu đưa giáo dục môi trường vào chương trình giáo dục các cấp học: Công tác giáo dục môi trường được quán triệt trong các cấp quản lý qua Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học cùng với các nhiệm vụ chính trị khác trong nhà trường

Tổ chức các hoạt động với nội dung về bảo vệ môi trường trong các trường phổ thông như cuộc thi những hạt mưa xanh, trại hè sinh thái, thi vẽ và biểu diễn về bảo vệ môi trường, xuất bản các bản tin giáo dục môi trường trong trường học… Những hoạt động này thực sự đã góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong các lứa tuổi học sinh, hướng cho học sinh có thái độ đúng đắn và hành vi tốt đẹp đối với môi trường. Hội Bảo vệ môi trường của thành phố được thành lập từ năm 1992 là một tổ chức quần chúng rộng rãi, tập hợp đông đảo các cán bộ khoa học, công nghệ, các nhà quản lý, các nhà hoạt động xã hội, các nhà doanh nghiệp và tất cả những ai quan tâm và tham gia các hoạt động liên quan đến sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố, đã phát triển mạnh mẽ. ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Đến nay Hội đã có gần 1000 hội viên. Hội Bảo vệ môi trường đã có nhiều hoạt động phong phú, thiết thực đóng góp tích cực trong sự nghiệp bảo vệ môi trường của thành phố.

Có thể nói trong những năm gần đây, hoạt động bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Luật Bảo vệ môi trường được đưa vào cuộc sống, nhận thức của cộng đồng về Bảo vệ môi trường có nhiểu chuyển biến và được nâng cao rõ rệt, việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường đã từng bước đi vào nề nếp.

Với sự nỗ lực của Chính quyền và nhân dân thành phố, chất lượng môi trường của thành phố đã được cải thiện rõ rệt – một yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống, xứng đáng với tầm vóc của đô thị loại 1, đô thị trung tâm cấp quốc gia.

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

2.2. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT TẠI HẢI PHÒNG

2.2.1. Biến động điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội ảnh hưởng tới môi trường nước mặt tại Hải Phòng

Trong vòng 10 năm qua, các điều kiện tự nhiên vùng ven biển Hải Phòng đã có những biến đổi đáng kể do tác động của các hoạt động phát triển kinh tế xã hội và biến đổi khí hậu toàn cầu.

Tài nguyên và môi trường nước mặt đã có những dấu hiệu bị ô nhiễm và suy thoái do sự phát triển nhanh chóng của các ngành kinh tế hàng năm đã tạo ra một lượng lớn chất thải hầu như không được xử lý xả trực tiếp vào nước sông và vùng ven bờ, hoạt động chặt phá rừng ngập mặn, khai thác thuỷ sản bằng các hình thức huỷ diệt, khoanh đất đầm nuôi chiếm hết diện tích bãi triều tự nhiên, tuỳ tiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất.

2.2.2. Hiện trạng và biến động chất lượng môi trường ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Chất lượng môi trường nước: nước tại các trạm biên giới sông của Hải Phòng có biểu hiện ô nhiễm ở hầu hết các thông số ngoại trừ phosphat và Nước biển ven bờ khu vực Hải Phòng bị ô nhiễm bởi 7/10 thông số quan trắc. Nếu sắp xếp theo thứ tự giảm dần các thông số ô nhiễm ta có dầu mỡ > nitrit > chất tẩy giặt > COD > NH4.

  • Chất lượng môi trường trầm tích:

+ Các chất ô nhiễm trong trầm tích: hàm lượng dầu – mỡ vượt quá hàm lượng 500,00mg/kg tại khu vực cảng, hàm lượng cyanua trong trầm tích trung bình toàn vùng là 0,11 mg/kg.

+ Kim loại nặng tại các trạm ven bờ Hải Phòng có hàm lượng Cu vượt quá ngưỡng TEL (18,70 mg/kg), Pb tại tất cả các trạm đều vượt ngưỡng

TEL (30,20 mg/kg) từ 1 đến 4 lần, hàm lượng Zn ở hầu hết các trạm đều vượt quá ngưỡng TEL, hàm lượng Cd vượt ngưỡng TEL (0,68 mg/kg), As thấp hơn ngưỡng TEL (7,60 mg/kg) từ 3 đến 6 lần, hầu hết các trạm đều có hàm lượng Hg vượt ngưỡng TEL (0,13 mg/kg). Các kim loại nặng phát hiện được trong môi trường đất – trầm tích trong những năm gần đây có xu hướng tăng lến rõ rệt đối với Cu, Pb, Zn, và Hg.

+ Hóa chất bảo vệ thực vật: bao gồm Lindan, Aldrin, 4,4-DDD, Endrin, 4,4-DDT, Diedrin, 4,4 – DDE hầu hết vượt ngưỡng TEL và PEL ở quanh đảo Cát Bà, ven các sông nơi mà tập trung nhiều khu công nghiệp.

+ Các nhà máy nước Hải Phòng đang gặp khó khi nguồn nước đầu vào từ các sông đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm dọc các dòng sông ở Hải Phòng. Đi dọc theo sông Rế từ huyện Kim Thành (Hải Dương) về đến huyện An Dương (Hải Phòng) trước khi chảy nhập vào dòng sông khác đổ ra biển, các công xưởng, nhà máy, mương chảy thải đã tuồn nước, đổ thẳng vào dòng sông.

Ví dụ gần đây : tổ công tác liên ngành, gồm: UBND phường Hùng Vương, Phòng TN&MT, Phòng Quản lý đô thị và Công an quận Hồng Bàng phối kết hợp kiểm tra toàn tuyến. Khi kiểm tra cơ sở tái chế dầu nhớt tại nhà số 16 phố An Trì do Vũ Ánh Dương (ở Thượng Lý, quận Hồng Bàng) làm chủ, phát hiện dòng nước thải lẫn dầu xả thải không qua hệ thống xử lý đã ngang nhiên đổ thải xuống tuyến kênh tiêu thoát nước Nam Bắc Hùng (phường Bắc Sơn, quận An Dương – Hải Phòng), đoạn tới cửa cống An Trì, thuộc tổ An Trì 1 (phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng) và chảy theo dòng kênh, dầu nổi kín mặt nước. Tổ công tác và đại diện Công ty TNHH MTV khai thác công trình thủy lợi An Hải (đơn vị quản lý tuyến kênh và sông Rế) tiến hành lập biên bản.

Tại hiện trường, 8 téc (loại 25m3/téc), 60 chiếc phuy (loại 200 lít/phuy) đang chứa đầy dầu thải; 1 xe ô tô chở téc chuyên dùng 25m3; 1 xe tải 2,5 tấn tự chế làm phương tiện chở dầu; 1 máy bơm dầu và hàng chục mét ống dẫn dầu thải. Chủ cơ sở không có bất kỳ một loại giấy tờ liên quan tới việc hành nghề cũng như các giấy tờ môi trường khác. Tổ công tác tiếp tục phát hiện ra cơ sở này lắp đường ống nhựa PVC chôn ngầm, mục đích dẫn chất cặn trong quá trình tái chế dầu và xả trực tiếp ra kênh mương dẫn nước chung trước khi chảy ra sông Rế… ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Tương tự các dòng sông Đa Độ, sông Chanh… khác cũng liên tục bị xâm hại ở mức báo động. Được biết, mỗi năm, sông Rế cung cấp khoảng 42 triệu m3 nước thô cho Nhà máy Nước An Dương để sản xuất nước sạch, đáp ứng nhu cầu về nước của khoảng trên 1 triệu dân khu vực nội thành, chiếm khoảng 60% dân số trên địa bàn thành phố. Đây cũng là nguồn cung cấp nước ngọt tưới tiêu 10 nghìn ha cây trồng cho huyện An Dương và một số phường thuộc quận Hồng Bàng. Vai trò của con sông đối với sự sống còn của người dân thành phố là không nhỏ. Tuy nhiên, theo kết quả quan trắc mới đây của Sở TN & MT Hải Phòng, chất lượng nguồn nước sông Rế đã có biểu hiện bị nhiễm mặn, nhiễm phèn và có độ cứng cao, hàm lượng chất hữu cơ, dầu,… quá tiêu chuẩn cho phép.Cụ thể, khu Bắc Hà (xã Bắc Sơn), gần khu vực nhà máy nước Vật Cách, amoni vượt 6 lần, nitrit vượt 1,1 lần, sắt vượt 12,2 lần. Khu vực xóm Phụng Dương (thôn Đình Ngọ, xã Hồng Phong), tổng chất rắn lơ lửng vượt 1,03 lần,sắt vượt 2,7 lần, phenol vượt 1,2 lần. Khu vực thôn Lương Quy (xã Lê Lợi), tổng chất rắn lơ lửng vượt 1,1 lần, COD vượt 1,27 lần, BOD5 vượt 1,5 lần, amoni vượt 2,4 lần, sắt vượt 1,4 lần, phenol vượt 4,4 lần. Khu vực tổ 3, thị trấn An Dương (gần cầu Rế), COD vượt 1,54 lần, BOD5 vượt 1,83 lần, amoni vượt 5,8 lần, sắt vượt 1,48 lần, phenol vượt 3,2 lần, coliform vượt 1,6 lần. Mẫu nước cống Cái Tắt, phenol vượt 3,2 lần, coliform vượt 1,2 lần. Xét theo TCVN 24:2009, nếu lấy nước phục vụ cung cấp nước sinh hoạt phải đạt tiêu chuẩn A.

Hải Phòng đang sản xuất nước sạch từ nguồn nước của 5 hệ thống chính gồm kênh An Kim Hải, sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ. Theo kết quả giám sát chất lượng nguồn nước do Công ty TNHH MTV cấp nước Hải Phòng phối hợp với Trung tâm Y tế dự phòng thực hiện, có thể thấy rõ chất lượng nước ngày càng giảm và ngược lại, tốc độ ô nhiễm ngày càng cao.

Một số con sông nêu trên khi chảy qua khu vực đông dân cư đều bị biến thành bãi rác. Ví như sông Rế dài chưa đầy 10 km chảy qua địa bàn huyện An Dương nhưng đâu đâu cũng thấy rác thải: Lòng sông rác được đóng thành bao thả trôi “lênh đênh”, trên bờ rác tập kết dọc đường đi và mỗi cơn mưa lớn tất tật bị cuốn xuống sông. Tại chân cầu Rế 1 (Trung tâm huyện An Dương), tình trạng họp chợ bên chân cầu diễn ra hàng ngày. Kết thúc mỗi phiên chợ, phần lớn rác thải được xả thẳng xuống sông.

2.3. XU THẾ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT TẠI HẢI PHÒNG

2.3.1. Xu thế ô nhiễm môi trường nước mặt tại Hải Phòng ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

  • Xu thế chất lượng nước:

Hàm lượng dầu trong nước sẽ gia tăng là hậu quả của phát triển cảng biển và hoạt động du lịch. Đặc biệt, là rác tấn công do sự thiếu ý thức của người dân, một phần lớn do cơ sở hạ tầng đã yếu kém. Nhóm các chất hữu cơ, dinh dưỡng trong nước cũng sẽ gia tăng mạnh do sự phát triển của nông nghiệp (chăn nuôi) và sinh hoạt, du lịch. Sự gia tăng lượng dầu mỡ và chất hữu cơ cũng sẽ kéo theo sự thiếu hụt ô xy hòa tan trong nước. Đặc biệt, với sự phát triển của công nghiệp chế biến, thải lượng nitơ và phospho từ các nguồn công nghiệp cũng sẽ tăng 11,2 lần và 1,7 lần, tương ứng. Ngoài ra, việc phát triển công nghiệp đóng tàu, sắt thép, sơn cũng sẽ làm tăng hàm lượng kim loại nặng trong nước, đặc biệt là Cu và Cd. Bên cạnh đó, hàm lượng của nhóm hóa chất độc hại PCBs trong nước biển cũng sẽ tăng cao do hậu quả của phát triển công nghiệp.

  • Xu thế biến đổi chất lượng môi trường đất – trầm tích:

+ Theo quy hoạch bảo vệ môi trường đến năm 2020, nước thải công nghiệp sẽ được thu gom và xử lý triệt để trước khi thải ra môi trường. Nếu quy hoạch bảo vệ môi trường thành công, nguồn gây ô nhiễm đất – trầm tích ven biển Hải Phòng sẽ giảm thiểu đáng kể và điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng đất – trầm tích trong khu vực.

+ Ngược lại, nếu quy hoạch bảo vệ môi trường của thành phố không đạt được thì môi trường đất và trầm tích Hải Phòng sẽ phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm cao với các nhóm thông số như: ô nhiễm kim loại nặng và các hóa chất công nghiệp độc hại (PCBs, PAHs, phenol…), ô nhiễm dầu mỡ trong trầm tích biển.

  • Khả năng tích luỹ độc tố trong sinh vật và thực phẩm:

+ Mức độ tích tụ của các hợp chất chất độc hại là cơ clo (OCPs), Polychlorinated biphenyls (PCBs) và kim loại nặng trong các loài sinh vật là đáng báo động, đặc biệt là các kim loại nặng và các hợp chất PCBs.

+ Với nồng độ các chất độc hại trong môi trường nước và trầm tích như hiện nay, dự báo nồng độ các chất độc như PCBs và kim loại nặng trong sinh vật biển sẽ tiếp tục tăng, nồng độ OCPs có xu hướng giảm. Sinh vật tại các khu vực cửa Thái Bình, Văn Úc, Lạch Tray, Bạch Đằng sẽ có nguy cơ ô nhiễm cao hơn các khu vực khác do phải sống trong môi trường tiếp nhận nhiều chất thải hơn.

2.3.2. Thực trạng công tác quản lý môi trường nước mặt tại Hải Phòng ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Phòng Tài nguyên & Môi trường Hải Phòng là đơn vị chịu trách nhiệm trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường (BVMT) trên địa bàn thành phố. Mặc dù đội ngũ cán bộ chuyên trách còn mỏng với 2 chuyên viên và 44 cán bộ xã kiêm nhiệm nhưng đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Hàng năm, Phòng Tài nguyên & Môi trường đều tham mưu cho UBND Quận, huyện ban hành các văn bản hướng dẫn, chú trọng các văn bản hướng dẫn thi hành về thu phí nước thải và chất thải rắn, công tác thẩm định và cam kết BVMT, xác nhận đề án BVMT, quản lý chất thải rắn, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm, xây dựng và ban hành các quy định cụ thể BVMT đối với chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản…nhằm đáp ứng ngày càng tốt việc thi hành Luật BVMT. Cùng với đó, huyện đã ban hành các nghị quyết, đề án về BVMT trong thời kỳ CNH – HĐH. Ngoài tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh, các xã và các trục giao thông chính đã treo hàng trăm khẩu hiệu tuyên truyền.

Điển hình như năm 2010, toàn thành phố đã dựng 1255 băng biển tuyên truyền BVMT tới tận các phường, xã, thị trấn. Đến nay đã cắm được 114 biển cỡ trung bình và cỡ lớn dọc các trục giao thông chính của thành phố. Hưởng ứng tháng hành động vì môi trường thế giới và các ngày lễ lớn trong năm, Phòng đã tham mưu cho UBND thành phố ban hành công văn, hướng dẫn các quận, huyện thực hiện nghiêm túc tại cơ sở mình với những hành động thiết thực.

Các hoạt động điều tra, thống kê chất thải, tư vấn, giải quyết những khó khăn vướng mắc trong công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường nước mặt đã được triển khai thực hiện. Công tác thanh tra, kiểm tra được tập trung vào các cơ sở sản xuất kinh doanh có khả năng gây ô nhiễm tới môi trường xung quanh. Một số điểm ô nhiễm môi trường đã được phát hiện và có các giải pháp xử lý phù hợp. Điển hình là 17/17 cơ sở sản xuất bể biôga ở An Lão và Tiên Lãng từ vật liệu composite tại các cụm công nghiệp vừa qua đã bị xử phạt hành chính, yêu cầu dựng sản xuất.

Trong 5 năm qua, thành phố đầu tư hơn 70 tỷ đồng cho việc thực hiện Chương trình Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn. Với kinh phí này, các địa phương xây dựng 101 hệ thống cấp nước tập trung, cấp vật tư hỗ trợ nhân dân xây dựng 5.094 bể nước mưa. Ngoài ra, các địa phương còn hỗ trợ người dân kinh phí, vật tư làm hàng chục nghìn nhà vệ sinh đúng tiêu chuẩn hợp vệ sinh, hàng nghìn chuồng trại chăn nuôi và hệ thống xử lý chất thải chăn nuôi.

Đến nay, toàn thành phố đã có 91% số hộ nông dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 68% số hộ ở nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế; hơn 47% chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh, 15% làng nghề có hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường…(Theo Monre.gov.vn)

Bên cạnh những mặt đã làm được, công tác quản lý môi trường nước mặt ở Hải Phòng còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là ý thức chấp hành pháp luật BVMT trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nghiêm túc, không tham gia các hoạt động xã hội về bảo vệ môi trường do địa phương, cơ quan phát động hoặc tham gia một cách chống đối. Công tác truyền thông về BVMT chưa thường xuyên, liên tục.

Đội ngũ chuyên trách về môi trường còn ít, nhiều cán bộ xã, phường còn chưa có chuyên môn dẫn tới khó khăn trong công tác quản lý môi trường cấp cơ sở. Kinh phí đầu tư cho sự nghiệp môi trường còn ít, việc cụ thể hoá các văn bản pháp luật về BVMT còn hạn chế…

Để công tác BVMT nước mặt được thực hiện tốt hơn, trong thời gian tới Hải Phòng tiếp tục tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc chấp hành pháp luật về BVMT nước mặt. Tổ chức triển khai và thực hiện nghiêm túc nghị quyết về công tác BVMT. Củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về môi trường đủ về số lượng và nâng cao về chất lượng. Huy động thêm kinh phí cho công tác BVMT từ nhiều nguồn. Xác định rõ nhiệm vụ bảo vệ môi trường là một trong những tiêu chí xét thi đua khen thưởng hàng năm của cơ quan, đơn vị, đồng thời giám sát chặt chẽ hơn nữa việc thực hiện cam kết trong thủ tục môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh.

2.3.3. Phân tích, đánh giá hệ thống pháp luật và chính sách, công cụ quản lý tài nguyên nước tại thành phố Hải Phòng ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

  •  Mặt tích cực

Hệ thống pháp luật về quản lý môi trường nước ở Hải Phòng đã được xây dựng khá hoàn chỉnh, ngày càng bổ sung, hoàn thiện theo hướng lồng ghép hữu cơ với quản lý nhà nước về tài nguyên thiên nhiên và hài hòa với phát triển kinh tế– xã hội, có tác dụng chống suy thoái và cạn kiệt nguồn nước. Đã có sự kế thừa, thống nhất giữa các cấp, các ngành trong công cuộc bảo vệ nguồn nước, thành lập Hội đồng quốc gia về ngành nước và các ban quản lý lưu vực sông.

  •  Những tồn tại

a, Đối với công tác quy hoạch tài nguyên nước

Mặc dù Luật Tài nguyên nước đã xác định vai trò của việc xây dựng và thực hiện quy hoạch tài nguyên nước; quy định mọi hoạt động bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và phòng chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải tuân thủ quy hoạch tài nguyên nước.Tuy nhiên, công tác quy hoạch tài nguyên nước tại Hải Phòng còn chậm, do Luật mới chỉ quy định về nguyên tắc, thiếu các quy định cụ thể về nội dung, trình tự thủ tục lập, thẩm định, thẩm quyền phê duyệt….Bên cạnh đó, chưa có cơ chế, biện pháp cụ thể để bảo đảm quy hoạch khai thác, sử dụng nước của các ngành, lĩnh vực có liên quan đến sử dụng tài nguyên nước phù hợp với quy hoạch tài nguyên nước, bảo đảm sử dụng tổng hợp, hiệu quả và đa mục tiêu các nguồn nước.

Việc thiếu quy hoạch, cùng với thiếu một tổ chức đủ mạnh để điều phối các hoạt động trên lưu vực đã phát sinh những vấn đề liên ngành, liên địa phương cần giải quyết nhưng chưa được phối hợp xử lý kịp thời.

Những vấn đề trên dẫn tới việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý, chưa bảo đảm tổng hợp, hiệu quả; chưa gắn kết giữa khai thác, sử dụng với bảo vệ, với phòng, chống tác hại do nước gây ra; quản lý chất lượng và số lượng không đi đôi với nhau và cũng làm hạn chế hiệu quả thực thi của Luật trên thực tế.

b, Đối với công tác điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước

Điều tra cơ bản, quan trắc, dự báo, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước và thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước là nền tảng cơ bản của công tác quy hoạch, quản lý các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ và phòng, chống tác hại do nước gây ra. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể trong Luật, mới chỉ quy định các nguyên tắc về trách nhiệm thực hiện điều tra cơ bản; thiếu các quy định về   nguyên tắc, nội dung, yêu cầu, phân công, phân cấp trách nhiệm thực hiện… ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Điều đó đang là những trở ngại lớn cho việc triển khai các hoạt động điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước, dẫn đến thông tin, số liệu về tài nguyên nước vừa thiếu, vừa phân tán và không đồng bộ; không nắm được tài nguyên nước quốc gia; không dự báo sớm được tình hình tài nguyên nước để có những biện pháp chủ động ứng phó,… và không đủ thông tin để giải quyết, xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn.

Hệ thống quan trắc, công nghệ, điều tra cơ bản phục vụ công tác dự báo, cảnh báo lũ, lụt, hạn hán, thiếu nước còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm chủ động trong việc kiểm soát lũ, hạn ở nhiều lưu vực sông. Chưa có ngân hàng dữ liệu tài nguyên nước quốc gia. Chế độ báo cáo, cung cấp dữ liệu, thông tin về tài nguyên nước, về khai thác, sử dụng nước của các ngành, các địa phương và các tổ chức, cá nhân chưa được coi trọng.

c, Đối với công tác bảo vệ tài nguyên nước 

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên nước tại Hải Phòng còn thiếu và chưa đồng bộ, không có điều luật quy định về bảo vệ các hệ sinh thái thủy sinh, bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, bảo vệ hành lang bảo vệ nguồn nước và thiếu các quy định về bảo vệ số lượng nước. Một số văn bản được ban hành quá chậm khiến cho việc thực thi các điều luật vào trong cuộc sống còn rất khó khăn.

Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, đô thị hoá, một số quy định về bảo vệ tài nguyên nước trong Luật hiện không còn phù hợp, một số nội dung quy định tuy đã có nhưng chưa cụ thể, rõ ràng, một số những vấn đề phát sinh trong thực tiễn nhưng chưa được điều chỉnh, cụ thể:

  • Bảo vệ tài nguyên nước bao gồm bảo vệ cả số lượng và chất lượng, nước mặt và nước dưới đất. Tuy nhiên, các quy định mới chỉ chú trọng về bảo vệ chất lượng nước và cũng chỉ chú trọng đối với nước mặt, chưa có quy định cụ thể để bảo vệ số lượng nước, phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
  • Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước là một trong những biện pháp quan trọng để phòng ngừa ô nhiễm nguồn nước, nhưng thiếu quy định cụ thể để kiểm soát các nguồn gây nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến các mục đích sử dụng nước, chưa có chế tài đủ mạnh để xlý và chưa gắn kết với pháp luật về bảo vệ môi trường.
  • Việc bảo vệ các nguồn nước quan trọng như sông, suối, hồ, đầm,.. còn chưa có quy định, cụ thể để kiểm soát các hoạt động ven nguồn nước, có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; chưa có quy định về hành lang để bảo vệ, phòng ngừa ô nhiễm nguồn nước các sông, hồ và nguồn nước quan trọng khác.
  • Hoạt động quản lý, kiểm soát ô nhiễm nước mới tập trung ở khu vực đô thị và các đoạn sông xung quanh thành phố và khu công nghiệp; những vấn đề về kiểm soát chất lượng nước và ô nhiễm nước ở các vùng nông thôn chưa được quan tâm thoả đáng.

d, Đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước

Khai thác, sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu tài nguyên nước là một trong những nguyên tắc căn bản trong quản lý hoạt động khai thác, sử dụng nước của các ngành, lĩnh vực, địa phương trên các lưu vực sông.

Tuy nhiên, do thiếu các quy định cụ thể, thiếu các biện pháp, chế tài… nên trên thực tế hoạt động khai thác, sử dụng nước chưa được quản lý, điều phối thống nhất dẫn đến hiệu quả sử dụng nước chưa cao; tình trạng sử dụng nước lãng phí, thiếu hiệu quả khá phổ biến.

Chưa có kế hoạch điều hòa, phân bổ nguồn nước, thiếu sự điều phối chung trên các lưu vực sông, nên chưa phát huy được hiệu quả của các công trình khai thác nước, kể cả các công trình đa mục tiêu trong việc phối hợp điều tiết nguồn nước phục vụ các yêu cầu phòng, chống lũ, cấp nước cho hạ du và các nhiệm vụ chính của công trình. ( Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta )

Nhiều công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước đã được xây dựng trong nhiều năm qua, song có ít công trình thực sự hoạt động đa mục tiêu và phát huy hiệu quả sử dụng nước. Trên thực tế, đã xảy ra tình trạng ngay trên một công trình, việc quản lý cũng bị phân tán, chia cắt hoặc việc phối kết hợp trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho các mục đích khác nhau cũng còn nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả hoạt động của công trình thấp.

Trong khi đó, nhu cầu dùng nước của các ngành kinh tế không ngừng gia tăng, cân bằng nước giữa cung và cầu nhiều nơi, nhiều lúc không bảo đảm và đã trở thành áp lực lớn, đặc biệt là từ khi chúng ta thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Áp lực đó không ngừng tăng lên do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, do quá trình đô thị hoá quá nhanh, do sự bùng nổ dân số…

Mời bạn tham khảo thêm:

Khóa luận: Giải pháp quản lý ô nhiễm môi trường nước hiện nay

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Khóa luận: Thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ta […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993