Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường

Rate this post

Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường thuộc chuyên ngành Kỹ thuật môi trường. Hải Phòng là thành phố cảng, có công nghiệp phát triển và là một trong năm đô thị trung tâm cấp quốc gia với tổng diện tích đất tự nhiên 1519 km2, dân số 1,907 triệu người , có 15 quận, huyện trong đó có 2 huyện đảo, có vị trí địa lý – chính trị – kinh tế – quân sự hết sức quan trọng và tiềm năng lớn của đất nước, một cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Nhận biết được tầm quan trọng đó, tác giả đã lấy đề tài Khảo sát việc tuân thủ Luật bảo vệ môi trường tại một số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng làm bài Luận tốt nghiệp.

2.1. Các vấn đề môi trường tại các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hải Phòng

2.1.1. Nguồn gốc ô nhiễm:

* Nước thải:

Nguồn gốc ô nhiễm do nước thải trong hoạt động sản xuất công nghiệp tại các doanh nghiệp khảo sát bao gồm:

  • Nước thải sinh ra từ quá trình làm nguội thiết bị có lưu lượng lớn. Loại nước thải này ít bị ô nhiễm, tuy nhiên nước xả từ các lò hơi lại có nhiệt độ, độ pH cao và có chứa một lượng nhỏ dầu mỡ, cặn lò không hoà tan, chất vô cơ.
  • Nước thải từ các xưởng cơ khí có mức độ ô nhiễm dầu thay đổi tuỳ thuộc vào mức độ và khả năng vận hành, quản lý. Lượng nước này thường không lớn và không thường xuyên.
  • Nước thải từ xưởng mạ, sơn có chứa các thành phần kim loại nặng: Cr, Ni, Zn,…
  • Nước thải từ quá trình chế biến nông sản thực phẩm gồm có nước rửa nguyên liệu và nước vệ sinh thiết bị nhà xưởng. Trong nước thải có chứa chất hữu cơ dễ phân huỷ và các chất rắn lơ lửng.
  • Nước thải từ các cơ sở sản xuất giấy, bao gồm các thông số gây ô nhiễm: nhu cầu oxy sinh học (BOD), nhu cầu oxy hoá học (COD), tổng hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS), clo dư, Axetat, Metanol, Axitfomic, sợi, CaCO3, đất sét chứa các kim loại nặng.
  • Nước thải từ các cơ sở cán kéo sắt thép có hàm lượng chất rắn lơ lửng SS, dầu mỡ ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )
  • Nước thải sinh hoạt: từ nơi ở của công nhân và nhà điều hành, chủ yếu bao gồm hàm lượng các chất hữu cơ dễ phân huỷ, chất rắn lơ lửng, các chất dinh dưỡng (N, P) và các vi sinh vật.
  • Nước mưa chảy tràn: khi nước mưa chảy tràn qua khu vực hoạt động của khu công nghiệp (đặc biệt là nước mưa đợt đầu) sẽ cuốn theo dầu mỡ rơi vãi, các chất cặn bã, đất cát rơi rớt xuống kênh mương của khu vực làm tăng độ đục của nước ao hồ, kênh rạch xung quanh.
  • Khí thải: khí thải phát sinh trong quá trình sản xuất ở các doanh nghiệp có thành phần rất phức tạp và chủ yếu chứa nhiều chất ô nhiễm như: SO2, CO, NOx, hơi chì, hơi hoá chất, hơi dung môi, hợp chất hữu cơ và bụi silic… Khí thải phát sinh trong quá trình hoạt động của khu công nghiệp có thể chia ra các dạng sau:
  • Khí thải của các quá trình đốt nhiên liệu (chủ yếu là dầu FO) và khí hoá lỏng LPG : chứa khí độc (NOx, SOx, COx, CxHy ).

Tuỳ theo nguồn gốc, dầu FO có hàm lượng lưu huỳnh từ 2-2,8% (trong tính toán lấy trung bình 2,4%). Hệ số ô nhiễm của các chất gây ô nhiễm không khí khi đốt dầu và gas theo đánh giá nhanh của WHO được thể hiện trong 2 bảng sau:

Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5939-2005 về Chất lượng không khí – Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ được ban hành kèm theo Quyết định số 22/2006/QĐ-BTNMT ngày 18 tháng 12 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên môi trường về việc bắt buộc áp dụng các tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường.

– Nm3: mét khối khí thải chuẩn (là mét khối khí thải ở nhiệt độ 250c và áp suất tuyệt đối 760 mm thủy ngân).

Đối với khí độc thì chỉ tiêu đáng quan tâm là nồng độ cacbonmonoxit CO. Nhìn chung các chất bụi, khí độc đều gây tác hại đối với con người và môi trường sống, tuỳ thuộc vào mức độ nặng, nhẹ, thời gian tiếp xúc mà có thể gây ra các loại bệnh về phổi, đau đầu, chóng mặt, bệnh tim, gan, suy nhược cơ thể…

Khí thải phát sinh ngay trên dây chuyền công nghệ sản xuất, loại khí thải này có thành phần rất phức tạp, ví dụ: hơi axit từ dây chuyền mạ kim loại, hơi dung môi, bụi sơn từ công đoạn sơn, hơi, khí độc từ dây chuyền đúc, ép nhựa, khí CO phát sinh từ lò nhiệt luyện kim, hơi chì từ công đoạn hàn, hơi dung môi, hoá chất từ công đoạn phối liệu, đánh bóng các chi tiết…

Hầu hết các lò đốt và nguồn thải này là nguồn thải thấp, khí thải không được xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường. Do các cơ sở này nằm xen kẽ với khu dân cư và các ống khói là thấp so với chiều cao chung của công trình xây dựng nên làm ô nhiễm khí độc cho một vùng hẹp hơn nhưng với nồng độ cao hơn so với các cơ sở không nằm xen kẽ trong khu dân cư.

Tiếng ồn: khu công nghiệp có nhiều máy móc, thiết bị có công suất lớn nên thường phát sinh tiếng ồn có cường độ cao: máy xay nghiền, băng tải truyền nguyên vật liệu và nhiều loại máy móc chuyên dụng khác.

Đối với cơ sở sản xuất nhỏ, có đặc thù nằm xen kẽ giữa các khu dân cư nên tiếng ồn gây ảnh hưởng nhất vào buổi trưa và tối làm ảnh hưởng tới cộng đồng dân cư. Mức độ tiếng ồn tại các cơ sở sản xuất nhìn chung đều ở tiêu chuẩn cho phép, tuy nhiên một số khu vực sản xuất cơ khí có mức phát sinh tiếng ồn cao hơn tiêu chuẩn cho phép gây ảnh hưởng tới các khu dân cư quanh vùng. Tiếng ồn làm cho nhân dân bị kích thích và khó chịu, rất dễ gây đau đầu và mất ngủ dẫn đến suy giảm sức khoẻ.

  • Chất thải rắn và chất thải nguy hại

Chất thải rắn: hàng ngày, trong quá trình sản xuất, các cơ sở sản xuất công nghiệp thải ra môi trường một lượng chất thải rắn như: xỉ than, chất thải rắn sinh hoạt. Đặc biệt các hộ kinh doanh cá thể cũng thải ra môi trường một lượng chất thải rắn không nhỏ. Những chất thải rắn này đang gây ô nhiễm môi trường cục bộ tại nơi sản xuất- kinh doanh nếu không được thu gom, vận chuyển và xử lý kịp thời, góp phần gây sức ép môi trường về vấn đề quản lý, thu gom và xử lý chất thải rắn của thành phố trong điều kiện CNH-HĐH như hiện nay.

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

2.1.2. Các loại hình sản xuất phát thải chất thải rắn bao gồm: ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

  • + Phế thải kim loại: mẩu vụn kim loại do quá trình gia công cơ khí thải ra (như dập, khoan, tiện, phay, mài, nấu, đúc). Lượng phế thải này khoảng chừng 5% lượng nguyên liệu ban đầu và có thể tận dụng tái sử dụng lại.
  • + Phế thải chất dẻo do quá trình gia công chất dẻo và bao gói sản phẩm. Loại này chiếm 7,5% lượng nguyên liệu ban đầu và cũng được thu gom để tận thu tái sử dụng lại.
  • + Các chất thải rắn quá trình chế biến nông sản thực phẩm: xác, bã các loại rau quả, thức ăn thừa, vỏ, cuống củ quả. Thành phần chủ yếu là xơ, đường, bột… Do có độ ẩm cao nên dễ bị nên men và phân huỷ gây ra mùi thối khó chịu.
  • + Các loại bao bì, bìa carton, giấy, thuỷ tinh, nilon… chiếm khoảng 0.5% lượng bao bì.

Chất thải nguy hại: các loại hình sản xuất có phát sinh chất thải nguy hại như:

Sản xuất lắp ráp điện tử.

Sản xuất cơ khí: phụ tùng thiết bị và các sản phẩm từ thép có công đoạn mạ. Các chất thải nguy hại được phát sinh ở các dạng bùn thải chứa kim loại nặng từ hệ thống xử lý nước thải của các loại hình sản xuất trên. Lượng bùn thải này nếu không được thu gom và quản lý tốt sẽ gây ô nhiễm kim loại nặng trong môi trường đất, nước mặt, nước ngầm khu vực.

Như vậy có thể nhận xét rằng lượng rác thải và chất thải rắn được thải ra hàng ngày một lượng rất lớn, lượng chất thải này khó tái sử dụng và thu hồi, đồng thời nếu không được thu gom hợp lý và sạch sẽ thì chúng sẽ bị tồn đọng thêm vào đất và sinh ra mùi khó chịu, gây mất mỹ quan môi trường.

2.2.Tình hình thực hiện, triển khai Luật bảo vệ môi trường năm 2005 ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

  • Ngay sau khi Quốc hội thông qua Luật BVMT 2005, các cơ quan quản lý môi trường từ trung ương đến địa phương đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho các đối tượng là cán bộ đang công tác tại các sở, ban, ngành, quận, huyện, thị xã…
  • Bên cạnh đó nhiều lớp tập huấn cho các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố về Luật BVMT năm 2005 trong đó chú trọng những điểm khác so với Luật năm
  • Nhìn chung các đơn vị đã chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường nhất là các đơn vị mới hoạt động từ sau khi Luật BVMT 2005 có hiệu lực. Số lượng các đơn vị lập báo cáo đánh giá tác động môi trường/ bản cam kết bảo vệ môi trường tăng.
  • Tuy nhiên hiện có nhiều đơn vị đang hoạt động (hoạt động từ trước khi có Luật Bảo vệ môi trường 2005) chưa có hồ sơ về môi trường theo đúng quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và không thực hiện việc quan trắc định kỳ để đánh giá hiện trạng môi trường của đơn vị, không áp dụng các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
  • Việc xử lý các chất thải tại các đơn vị còn hạn chế nhất là nước thải và chất thải rắn công nghiệp.
  • Công tác lập hồ sơ kê khai đăng ký chủ nguồn thải; công tác quản lý, thu gom và xử lý chất thải nguy hại chưa được quan tâm.
  • Việc đăng ký kê khai và nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải chưa được thực hiện.

Thực hiện Quyết định số 1987/QĐ-TTg ngày 30/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật”, Bộ Tư pháp được giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan thực hiện các hoạt động của Đề án. Theo kết quả điều tra, khảo sát, tình hình vi phạm pháp luật về môi trường của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và công dân diễn ra tương đối phổ biến với một số vi phạm điển hình như: vi phạm các quy định về báo cáo đánh giá tác động môi trường; vi phạm các quy định về xử lý chất thải, nước thải; vi phạm các quy định về quản lý, xử lý chất thải nguy hại, chất thải y tế; vi phạm các quy định về BVMT trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu; phế liệu…

Những kết quả điều tra này sẽ là những đóng góp đầu vào quan trọng cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy định về theo dõi thi hành pháp luật nói chung và môi trường nói riêng, đặc biệt là cơ sở cho việc sửa Luật BVMT 2005 cho phù hợp với tình hình hiện nay. ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

Tại Hải Phòng, trong năm 2010, phát hiện vi phạm và xử phạt vi phạm hành chính đối với 10 doanh nghiệp với số tiền 150.000.000 đồng; đề xuất UBND thành phố ra quyết định xử phạt 4 công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp (KCN) 310.000.000 đồng. Lực lượng Cảnh sát Môi trường phối hợp với đoàn kiểm tra liên ngành phát hiện, điều tra, xác minh 363 vụ vi phạm, hoàn thành xử lý 311 vụ; phạt vi phạm hành chính hơn 855.000.000 đồng. Trong đó, riêng lực lượng phòng, chống tội phạm môi trường phát hiện 132 vụ, phạt vi phạm hành chính 759.650.000 đồng; phối hợp với đoàn kiểm tra liên ngành xử lý 146 cơ sở vi phạm, phạt cảnh cáo 10 cơ sở, phạt hành chính 113.400.000 đồng.

Theo kết quả điều tra, khảo sát cho thấy, các tổ chức, cá nhân thường thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ cam kết của báo cáo ĐTM đã được phê duyệt và Bản cam kết BVMT hoặc Đề án BVMT đã được xác nhận; chưa đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải rắn, lỏng, khí như đã cam kết đăng ký, có nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã xây dựng trạm xử lý nhưng hệ thống xử lý không đạt yêu cầu về kỹ thuật hoặc không vận hành thường xuyên.

Theo quy định, các cơ sở chỉ được phép đi vào hoạt động chính thức sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền “kiểm tra, xác nhận việc đã thực hiện đầy đủ các nội dung của báo cáo ĐTM và yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM”. Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn các doanh nghiệp đi vào hoạt động đã bỏ qua thủ tục này.

  •  Nguyên nhân của tình hình vi phạm pháp luật về BVMT:

Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật: nhìn một cách toàn diện có thể thấy rằng, bên cạnh các ưu điểm, thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường ở nước ta vẫn còn rất nhiều khiếm khuyết, thiếu đồng bộ và chưa rõ ràng, tính khả thi chưa cao; một số quy định chưa chặt chẽ và không phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội; một số văn bản chưa được quy định chi tiết và hướng dẫn một cách kịp thời.

Thứ hai, ý thức chấp hành pháp luật: mặc dù vấn đề truyền thông, phổ biến về BVMT nói chung và pháp luật về BVMT nói riêng đã được quan tâm và triển khai một cách tương đối bài bản. Tuy nhiên, hiệu quả công tác này vẫn còn hạn chế. Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc BVMT, một số đối tượng khác mặc dù đã nhận thức đầy đủ nhưng vì lợi ích cá nhân nên vẫn cố tình vi phạm.

Thứ ba, vấn đề xử lý VPPL: thực tế cho thấy, việc xử lý VPPL về môi trường chưa được thực hiện một cách đồng bộ và thống nhất giữa các Bộ, ngành, địa phương; việc áp dụng các hình thức xử lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa thực sự nghiêm minh, đặc biệt khi xử lý đối với các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước.

Thứ tư, các hình thức chế tài: mặc dù Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử lý VPPL trong lĩnh vực BVMT đã quy định khá chi tiết về các hành vi vi phạm cũng như biện pháp xử lý với mức phạt tăng lên rất nhiều lần so với quy định trước đây. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hình thức chế tài quá nhẹ, không đủ sức răn đe. Thực tiễn áp dụng một số quy định về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự đối với VPPL về BVMT còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Các quy định về trách nhiệm xác định, giám định, đền bù thiệt hại còn chưa rõ ràng và không khả thi. Vì vậy, trên thực tế có nhiều doanh nghiệp thay bằng việc đầu tư trang thiết bị xử lý chất thải bằng việc chấp nhận các hình thức xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, nhu cầu phát triển kinh tế và giải quyết công ăn việc làm của người lao động đã làm cho việc phát hiện, xử lý các VPPL gặp nhiều khó khăn, cản trở và áp lực từ phía các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ trong nhiều trường hợp cụ thể. Ở nhiều địa phương, do chính sách ưu tiên phát triển kinh tế nên đã kêu gọi đầu tư dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ ạt, không quan tâm đến việc thẩm định, đánh giá ảnh hưởng của các dự án đối vói môi trường, đặc biệt là các dự án thuộc lĩnh vực trọng điểm.

2.3. Hiện trạng tuân thủ Luật bảo vệ môi trường Việt Nam tại các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng

2.3.1. Tuân thủ lập báo cáo đánh giá tác động môi trường/bản cam kết bảo vệ môi trường ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

  • Lập báo cáo đánh giá tác động môi trường:

Mục 20 – Điều 3 – Luật BVMT năm 2005 quy định các doanh nghiệp phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nhằm “phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó” [11]. Theo số liệu điều tra được, trong số 14 cơ sở công nghiệp chỉ có 3/14 cơ sở (chiếm tỉ lệ 21,4%) đã lập báo cáo đánh giá tác động môi trường bao gồm: Công ty Cổ phần thép Đình Vũ, Công ty TNHH Một thành viên Đóng tàu Phà Rừng, Công ty Cổ phần Chế biến Dịch vụ Thủy sản Cát Hải. Điều này cho thấy đã có ý thức về BVMT ở các doanh nghiệp. Tuy nhiên tỉ lệ các doanh nghiệp tham gia lập báo cáo đánh giá tác động môi trường còn thấp. Hầu hết các doanh nghiệp đều thuê các cơ quan dịch vụ khoa học và công nghệ lập báo cáo ĐTM.

  • Cam kết bảo vệ môi trường:

Về cơ bản, việc lập cam kết bảo vệ môi trường cũng tương tự như lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Tuy nhiên đối tượng áp dụng và nội dung của một cam kết bảo vệ môi trường thường thực hiện ở quy mô nhỏ hơn. Cam kết môi trường áp dụng cho những đối tượng ngoài Phụ lục 1 – Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09-8-2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật BVMT. Như vậy tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ quy mô hộ gia đình và đối tượng không thuộc quy định tại Điều 14 và Điều 18 của Luật này phải có cam kết bảo vệ môi trường. Tuy nhiên trong số 11 doanh nghiệp còn lại (3 doanh nghiệp đã lập báo cáo đánh giá tác động môi trường) chỉ có 5/14 doanh nghiệp (chiếm khoảng 45,5%) có cam kết bảo vệ môi trường bao gồm các công ty: TNHH Johuku Hải Phòng, TNHH Yazaki Hải Phòng – Việt Nam, xí nghiệp giao nhận Thủy sản xuất khẩu Hải Phòng, cổ phần và thương mại Hoàng Gia, may liên doanh Hải Phòng. Còn lại 6/14 doanh nghiệp (chiếm 42,86%) không lập các báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường.

  • Đánh giá chung:

Từ khi có Luật bảo vệ môi trường năm 2005 cho đến nay, ý thức tuân thủ các quy định về BVMT nói chung, thực hiện công tác đánh giá tác động môi trường nói riêng của các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố ngày càng được nâng cao. Các doanh nghiệp lập báo cáo đánh giá tác động môi trường/ bản cam kết bảo vệ môi trường chiếm tỉ lệ trung bình (trong số 14 doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu có 8 doanh nghiệp chiếm tỉ lệ 57,14% đã lập báo cáo đánh giá tác động môi trường/ bản cam kết bảo vệ môi trường). ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện:

  1. Hầu hết các chủ đầu tư không đủ năng lực lập báo cáo ĐTM mà phải thông qua tổ chức tư vấn, trong khi đó các đơn vị tư vấn về ĐTM tại Hải Phòng không nhiều, năng lực các đơn vị này không đồng đều, chất lượng chuyên gia môi trường thấp. Chỉ có một số đơn vị có thiết bị quan trắc môi trường, có nhân lực khoa học theo quy định. Một số đơn vị khác mặc dù trước đây đã từng cung cấp dịch vụ ĐTM này nhưng theo quy định của Luật 2005 thì chưa đáp ứng yêu cầu vì chưa đầu tư cơ sở vật chất và máy móc, thiết bị… dẫn tới chất lượng các báo cáo ĐTM rất hạn chế, không đáp ứng yêu cầu, gây khó khăn cho công tác thẩm định cũng như làm chậm tiết độ phê duyệt các dự án đầu tư.
  2. Có nhiều dự án do những lý do khác nhau không lập báo cáo ĐTM trước khi đi vào hoạt động đã trở thành cơ sở đang hoạt động.
  3. Luật BVMT còn bỏ sót các đối tượng dự án không theo phân cấp thẩm định tại Điều 21 khoản 7 (Ví dụ các dự án đầu tư do các cơ quan chủ quản như: Tập đoàn, Tổng công ty, Công ty, Ban quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp phê duyệt dự án hay các dự án do chủ đầu tư tự phê duyệt, tự sử dụng nguồn vốn tự có của mình…) không thuộc các cơ quan quy định tại các điều 2.1; 2.2; 2.3 dự án đầu tư nên cũng không phê duyệt báo cáo ĐTM.
  4. Danh mục các dự án phải lập báo cáo ĐTM theo Phụ lục I, Nghị định 80/2006/NĐ-CP chặt chẽ về quy mô, công suất, sản lượng đối với các dự án. Nhiều loại dự án có quy mô nhỏ cũng phải lập báo cáo ĐTM là không cần thiết. Trong đó có ngành sản xuất giấy có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao lại không có trong danh mục lập báo cáo ĐTM. Nên quy định loại hình dự án theo mã số thống kê theo ngành để dễ xếp loại dự án trong quá trình hướng dẫn các chủ đầu tư.
  5. Nội dung báo cáo ĐTM (Phụ lục 4) quá dài, chưa sát với điều 3, mục 20, Luật BVMT. Tham vấn ý kiến cộng đồng theo như hướng dẫn tại Thông tư 08/2006/TT-BTNMT không thực tế, cần chỉnh sửa theo hướng lấy khai thác kinh nghiệm của cộng đồng để đánh giá ảnh hưởng tổng hợp của dự án đến môi trường trong quá trình nghiên cứu báo cáo ĐTM.
  6. Chủ dự án khi lập báo cáo đầu tư có xu hướng chọn công suất xấp xỉ dưới mức phải lập báo cáo ĐTM để chuyển sang lập cam kết
  7. Đánh giá tác động môi trường có nhiều bước khác nhau tương ứng với các công đoạn khác nhau của dự án đầu tư (tiền khả thi, khả thi, thiết kế xây dựng). Nhưng vẫn có tình trạng chủ dự án chỉ làm một hoặc vài bước đầu, khi được phép đầu tư thì “trốn” các bước còn lại vì sợ tốn kém hoặc phải chạy đua với thời gian để hoàn thành tiến độ dự án.
  8. Việc triển khai xác nhận bản cam kết BVMT tại các quận, huyện, thị xã do có hướng dẫn cụ thể và chi tiết của Sở Tài nguyên và Môi trường nên đã giảm thiểu khối lượng công việc của thành phố, tuy nhiên chất lượng các bản cam kết cũng cần phải cải tiến. Cán bộ làm công tác này cũng cần phải thường xuyên được nâng cao trình độ.

2.3.2 Tuân thủ hoạt động quan trắc ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

Tại mục (d) Khoản 2 Điều 94 Luật BVMT năm 2005 quy định như sau: “Người quản lý, vận hành cơ sở sản xuất, kinh doanh , dịch vụ hoặc khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung có trách nhiệm quan trắc các tác động đối với môi trường từ các cơ sở của mình” [11]. Như vậy theo luật BVMT 2005 các doanh nghiệp phải tự tiến hành quan trắc các tác động đối với môi trường từ các cơ sở của mình. Tuy nhiên trang thiết bị phục vụ quan trắc môi trường hầu hết là phải nhập ngoại, giá thành đắt nên phần lớn các doanh nghiệp không có kinh phí đầu tư, thậm chí một số thiết bị đo nhanh một số chỉ tiêu môi trường cũng thiếu. Mặt khác về đội ngũ nhân lực, hầu hết cán bộ khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp không có kiến thức về lĩnh vực này. Do đó một số doanh nghiệp có ý thức tuân thủ các quy định của Luật BVMT thì hoạt động quan trắc môi trường thường được thuê các đơn vị ngoài thực hiện.

Theo điều tra thì tại 14 doanh nghiệp thuộc 7 ngành công nghiệp khác nhau của thành phố có tới 14 doanh nghiệp chiếm tỉ lệ 100% đã tiến hành quan trắc môi trường. Trong đó có những doanh nghiệp không tham gia công tác đánh giá tác động môi trường nhưng vẫn tiến hành quan trắc như: Xí nghiệp Giao nhận Thủy sản Xuất khẩu Hải Phòng, Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại Tân Hương, cơ sở Mạ tư nhân Thế Hùng, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sumirubber Việt Nam, Trung tâm Dạy nghề Công ty Da giày Hải Phòng. Điều đó cho thấy đã có ý thức về BVMT của các doanh nghiệp về quan trắc. Tuy nhiên, quan trắc môi trường chỉ được các doanh nghiệp thực hiện khi bị thanh tra hoặc liên quan đến xuất nhập khẩu hàng và nguyên liệu phục vụ sản xuất, còn sau đó hoạt động này đã không được thực hiện. Nguyên nhân là do ý thức chấp hành luật BVMT các doanh nghiệp kém và thêm vào đó có sự buông lỏng trong công tác kiểm tra, giám sát thực hiện luật của các cơ quan quản lý môi trường của thành phố.

Trong số 14 doanh nghiệp được tiến hành nghiên cứu về quan trắc, chỉ có 6 doanh nghiệp tiến hành quan trắc định kỳ. Trong đó Công ty TNHH Johoku 4 lần/năm; Công ty TNHH Yazaki HP-VN 2 lần/năm; Xí nghiệp Giao nhận Thủy sản Xuất khẩu Hải Phòng 2 lần/năm; Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại Tân Hương 2 lần/năm; Công ty TNHH Một thành viên Đóng tàu Phà Rừng 2 lần/năm; Xưởng nấu, luyện phôi thép công ty TNHH Quang Hưng 2lần/năm.

Còn lại 8 doanh nghiệp chỉ tiến hành quan trắc duy nhất 1 lần/năm.

Theo quy định về tần suất quan trắc, cần tiến hành quan trắc 3 tháng/1 lần đối với nguồn và 6 tháng/1 lần đối với xung quanh. Như vậy chỉ có công ty TNHH Johoku Hải Phòng là tuân thủ đúng các quy định về quan trắc. Còn lại các cơ sở công nghiệp khác việc quan trắc chưa được tuân thủ một cách nghiêm túc.

Nếu như việc tiến hành quan trắc môi trường ở các doanh nghiệp chỉ mang tính chất đối phó, hình thức nhằm được cấp giấy phép hoạt động thì hậu quả môi trường do chính sự phát triển của các hoạt động sản xuất mang lại sẽ là rất lớn.Vì vậy công tác thanh tra cần được tiến hành thường xuyên. Ngoài ra cần phải áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính nghiêm khắc đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Có như vậy mới nâng cao được ý thức tự giác của các doanh nghiệp về quan trắc môi trường.

2.3.3 Tuân thủ xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

Hải phòng hiện nay tồn tại nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Lượng nước thải của các loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có hàm lượng các chất gây ô nhiễm lớn, thành phần rất phức tạp, có nhiều chất độc hại và gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường. Điều đáng lưu ý là hầu hết các cơ sở này không có hệ thống xử lý nước thải. Bên cạnh đó, nguồn nước thải trong sinh hoạt của dân cư cũng rất lớn. Ở nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng đang đứng trước thách thức là nguồn nước thải ngày một gia tăng trong khi đó hệ thống xử lý nước thải còn nhiều bất cập nên đã làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng có xu hướng tăng lên.

Để khắc phục tình trạng này, Khoản 1 Điều 82 Luật BVMT 2005 quy định những đối tượng sau đây phải có hệ thống xử lý nước thải: khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung; khu, cụm công nghiệp làng nghề; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không liên thông với hệ thống xử lý nước thải tập trung [11].

Đồng thời, Khoản 2 Điều 82 Luật BVMT 2005 cũng quy định hệ thống xử lý nước thải phải đảm bảo các yêu cầu như : phải có quy trình công nghệ phù hợp với loại hình nước thải cần xử lý; đủ công suất xử lý nước thải phù hợp với khối lượng nước thải phát sinh; xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường; cửa xả nước thải vào hệ thống tiêu thoát phải đặt ở vị trí thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát; vận hành thường xuyên [11].

Khoản 3 Điều 82 Luật BVMT 2005 quy định rõ trách nhiệm của chủ quản lý hệ thống xử lý nước thải phải thực hiện quan trắc định kì nước thải trước và sau khi xử lý. Số liệu quan trắc được lưu giữ làm căn cứ để kiểm tra, giám sát hoạt động của hệ thống xử lý nước thải [11].

Hiện nay, theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường về tình hình thực hiện Luật BVMT tại các doanh nghiệp: còn có một bộ phận các doanh nghiệp hiện không có hệ thống xử lý nước thải trước khi xả ra môi trường, hoặc có nhưng hoạt động không có hiệu quả. Thành phố hiện có 3 khu công nghiệp/ cụm công nghiệp: Nomura, Đình Vũ, Cụm công nghiệp Vĩnh Niệm. Trong đó có khu công nghiệp Nomura đã xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật và hệ thống xử lý nước thải tập trung; khu công nghiệp Đình Vũ trong tháng 9 vừa qua, đã đưa vào vận hành nhà máy xử lý nước thải tập trung được thiết kế với tổng công suất 9.600m3/ngày đêm, trạm xử lý nước thải giai đoạn 1 với công suất 2.500m3/ngày đêm, vốn đầu tư 1,2 triệu USD đã được hoàn thành. Ngoài ra, khu công nghiệp còn 2 trạm xử lý nước thải di động với công suât 100 m3/ngày đêm. Hệ thống được áp dụng công nghệ xử lý sinh học dạng mẻ SBR kết hợp quá trình xử lý hiếu khí và thiếu khí trong cùng một bể. SBR rất hiệu quả trong việc loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ, TSS, Nitơ với cơ chế vận hành đơn giản và hoàn toàn tự động. Nước thải sau xử lý đạt Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp QCVN 24:2009/BTNMT, cột B.

Theo kết quả điều tra thu thập được, trong số 14 cơ sở sản xuất công nghiệp chỉ có:

  • Ba cơ sở (chiếm khoảng 21,4%) đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải và vận hành tốt.
  • Một cơ sở (chiếm khoảng 7,1%) đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải và vận hành không có hiệu quả.
  • Một cơ sở (chiếm khoảng 7,1%) đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhưng không vận hành.
  • Chín cơ sở (chiếm khoảng 64,4%) không xây dựng hệ thống xử lý nước thải. ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

Cơ sở công nghiệp đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải và vận hành tốt là: nhà máy Sumirubber việt Nam có vị trí tại Lô A11, khu công nghiệp Nomura, huyện An Dương thành phố Hải Phòng đã có hệ thống xử lý nước thải nằm trong hệ thống xử lý nước thải tập trung của cả khu công nghiệp; Công ty Cổ phần Thép Đình Vũ nằm trong khu công nghiệp Đình Vũ và Công ty Cổ phần Chế biến Dịch vụ Thủy sản Cát Hải. Vì thế nồng độ các chất ô nhiễm môi trường nước thải đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường hiện hành.

Công ty TNHH Yazaki HP-VN cũng nằm trong khu công nghiệp Nomura. Hệ thống xử lý nước thải tuy đã được xây dựng nhưng vận hành không tốt. Biểu hiện chất lượng nước vẫn còn có một số chỉ tiêu vượt quá giới hạn cho phép theo TCVN và tiêu chuẩn của khu công nghiệp (NHIZ) như các thông số: BOD, COD, tổng nitơ, tổng phôtpho, NH3-N,…

Một cơ sở công nghiệp đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhưng không vận hành là: Công ty Cổ phần Vận tải và Thương mại Hoàng Gia. Có thể do nhiều lý do khác nhau mà cơ sở này đã xây dựng nhưng hệ thống đã không được vận hành. Điều này dẫn tới chất lượng nước thải của công ty vượt quá nhiều lần TCVN cho phép.

Ngoài ra, Xí nghiệp Giao nhận Thủy sản xuất khẩu Hải Phòng với chủ yếu là các kho bảo quản thủy sản đông lạnh nên lượng chất thải phát sinh là khá ít, chất lượng nước thải đều nằm trong giới hạn TCVN cho phép; Công ty TNHH Một thành viên Đóng tàu Phà Rừng mang đặc thù của ngành công nghiệp đóng tàu sử dụng khá nhiều nhiên liệu xăng dầu, lượng dầu thải tương đối lớn nên chỉ có hàm lượng dầu mỡ là cao hơn giá trị thông số ô nhiễm.

Chiếm tỷ lệ lớn các cơ sở sản xuất công nghiệp không xây dựng hệ thống xử lý nước thải bao gồm: Công ty May liên doanh Hải Phòng, Xí nghiệp Bóng Tô Hiệu, Cơ sở Mạ tư nhân Thế Hùng, Công ty TNHH Quang Hưng, Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại Tân Hương, Công ty Da giày Hải Phòng, Công ty TNHH Johuku Hải Phòng. Các cơ sở này đều có các thông số ô nhiễm lớn gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Chất lượng nước có nguy cơ gây ô nhiễm trầm trọng. Vì vậy, trong thời gian tới nếu các cơ sở này không có các biện pháp xử lý nước thải thì buộc phải đóng cửa hoặc di dời địa điểm theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22-4-2003 của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Có thể thấy vấn đề ô nhiễm môi trường tại các doanh nghiệp đã đến hồi “báo động” đối với tất cả các ngành, các cấp và tất cả những người có trách nhiệm BVMT nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành.

Ghi chú:

  • A1: Trung tâm dạy nghề da giày – công ty da giày Hải Phòng ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )
  • A2: Công ty may liên doanh Hải Phòng
  • A3: Xí nghiệp bóng Tô Hiệu
  • A4: Cơ sở mạ tư nhân Thế Hùng
  • A5: Công ty TNHH Quang Hưng
  • A6: Công ty cổ phần vận tải và thương mai Hoàng Gia
  • A7: Công ty cổ phần đầu tư và thương mại Tân Hương
  • A8: Công ty TNHH Johuku Hải Phòng – Việt Nam
  • A9: Công ty TNHH Yazaki Hải Phòng – Việt Nam
  • A10 :Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng
  • A11: Xí nghiệp giao nhận thủy sản xuất khẩu Hải Phòng
  • A12: Công ty cổ phần thép Đình Vũ
  • A13: Công ty cổ phần chế biến dịch vụ thuỷ sản Cát Hải
  • A14: Công ty TNHH Sumirubber Việt Nam

QCVN 24:2009/BTNMT : Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về nước thải công nghiệp thay thế TCVN 5945-2005 Từ bảng tổng hợp số liệu trên, có thể rút ra nhận xét sau: Hầu hết chất lượng nước thải ở tất cả các doanh nghiệp đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường hiện hành.

Trong đó có nhà máy Sumirubber thuộc khu công nghiệp Nomura, công ty cổ phần thép Đình Vũ và công ty cổ phần chế biến dịch vụ thủy sản Cát Hải là có nồng độ các chất gây ô nhiễm môi trường nước thải đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường hiện hành. Công ty TNHH Yazaki cũng thuộc khu công nghiệp Nomura nhưng chất lượng nước vẫn còn có một số chỉ tiêu vượt quá giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn của khu công nghiệp (NHIZ) như BOD, COD, tổng Nitơ, tổng photpho, NH3-N… Điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành Luật BVMT còn kém.

2.3.4 Tuân thủ quản lý chất thải rắn

  • Chất thải rắn thông thường

Chất thải rắn thông thường tuy không độc hại bằng chất thải nguy hại nhưng nếu việc phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải không theo đúng quy trình thì cũng gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và sức khoẻ của cộng đồng. Trách nhiệm phân loại rác thải tại nguồn của tổ chức, cá nhân có hoạt động phát sinh chất thải cũng được Luật quy định rõ. Khoản 2 Điều 77 Luật BVMT năm 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân phát sinh chất thải rắn thông thường có trách nhiệm thực hiện phân loại tại nguồn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải”. Chất thải rắn thông thường sau khi được phân loại tại nguồn thì phải thực hiện biện pháp tiếp theo là thu gom, vận chuyển. Để BVMT trong việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường, Khoản 1 Điều 78 Luật BVMT năm 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân quản lý khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, khu dân cư tập trung, khu vực công cộng phải bố trí đầy đủ và đúng quy định thiết bị thu gom để tiếp nhận chất thải rắn phù hợp với việc phân loại tại nguồn” [11]. ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

Ngành công nghiệp ở Hải Phòng có một số đặc thù và được phân theo nhóm: công nghiệp cơ khí, đúc, công nghiệp sơn, cao su, hoá chất, vật liệu xây dựng, may mặc, da giày,… Phần lớn rác thải công nghiệp của Hải Phòng do chính các nhà máy thu gom, xử lý vận chuyển ra bãi chôn lấp chung của thành phố. Một phần rác thải công nghiệp độc hại đã được hợp đồng với công ty môi trường đô thị để thu gom và xử lý. Vì vậy không gây tác động đáng kể tới môi trường. Tuy nhiên, chất thải công nghiệp ngành da giày hiện chưa có giải pháp xử lý triệt để (không kí hợp đồng với công ty môi trường đô thị để thu gom và xử lý), do doanh nghiệp ký hợp đồng với công ty TNHH Hưng Thịnh để vận chuyển, xử lý bằng lò đốt (đã dừng hoạt động) – hiện đang là vấn đề bức xúc của thành phố.

Trong số 14 cơ sở công nghiệp được tiến hành nghiên cứu có 13/14 cơ sở (chiếm khoảng 92,8%) đã hợp đồng với công ty môi trường đô thị để thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải của đơn vị mình ra bãi chôn lấp chung của thành phố. Tuy nhiên theo số liệu của công ty môi trường đô thị thì lượng chất thải rắn công nghiệp mới chỉ thu gom được 50% lượng phát sinh. Như vậy vẫn còn khoảng 50% lượng rác thải tồn đọng trong thành phố, với điều kiện nóng ẩm theo thời gian chúng sẽ phân huỷ và bốc mùi xú uế. Ngoài ra không có sự phân loại rác tại các đơn vị. Rác thải sinh hoạt của cán bộ công nhân viên được thu gom lẫn với rác thải rắn công nghiệp, vì thế rất khó khăn cho khâu xử lý. Lượng rác thải hữu cơ bị trộn lẫn bị phân huỷ tạo ra các tác nhân gây ô nhiễm, đặc biệt là về mùi và nước rác, là môi trường để côn trùng gây bệnh phát triển, làm ô nhiễm môi trường.

Hiện nay rác thải ngành công nghiệp da giày không được thu gom, xử lý. Chất thải rắn của công ty chủ yếu là các mẩu vụn thừa như: vải; giả da các vỏ hộp keo từ xưởng thực hành và sản xuất thử; chất thải rắn sinh hoạt được thải ra trong quá trình sinh hoạt, ăn uống của học viên, cán bộ công nhân viên trong trung tâm. Trước năm 2000 các loại chất thải này được xử lý bằng phương pháp đốt do doanh nghiệp kí hợp đồng với công ty TNHH Hưng Thịnh để vận chuyển, xử lý bằng lò đốt, nhưng đến nay đã dừng hoạt động do phát sinh vấn đề về môi trường không khí (tạo khí dioxin). Vì thế lượng chất thải này hiện chưa có giải pháp xử lý triệt để, hiện đang là vấn đề bức xúc của thành phố. ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

  • Chất thải rắn nguy hại

Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã phát sinh các loại chất thải nguy hại: các dung môi thải; chất thải keo dính; chất thải chứa Ni, Ag, Cu, Cr; hoá chất; chất tẩy dầu mỡ; các loại bùn thải… mức độ phát sinh chất thải nguy hại cao có thể kể đến là cơ sở mạ tư nhân Thế Hùng. Từ công nghệ và các dòng thải quá trình mạ cho thấy một lượng lớn hoá chất có tính độc hại tham gia vào dây chuyền sản xuất. Hoá chất chủ yếu sử dụng trong quá trình mạ là axit, xút, muối vô cơ. Quá trình tẩy rỉ trước mạ thường sử dụng H2SO4, tẩy dầu mỡ thường dùng hỗn hợp các hoá chất NaOH, Na2CO3, Na3PO4, Na2SiO3… Hoá chất chính thường sử dụng trong bể mạ Crôm là CrO3, H2SO4. Loại chất này rất nguy hại, nếu không có các biện pháp xử lý kịp thời thì hậu quả đem lại sẽ không thể kiểm soát được.

Có thể nói, công tác quản lý chất thải nguy hại là một vấn đề thời sự nónghổi hiện nay. Bởi vì nếu không có các biện pháp để quản lý chất thải một cách có hiệu quả, đúng đắn thì những hậu quả không thể lường trước được của nó khiến chúng ta và cả thế hệ mai sau phải gánh chịu. Chính vì vậy để ngăn ngừa và giảm thiểu tối đa các tác hại của chất thải nguy hại, ngay từ việc lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép và mã số hoạt động quản lý chất thải nguy hại đã được luật BVMT 2005 quy định rất cụ thể.

Theo Khoản 1 Điều 70 Luật BVMT 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân có hoạt động phát sinh chất thải nguy hại hoặc bên tiếp nhận quản lý chất thải nguy hại phải lập hồ sơ đăng kí với cơ quan chuyên môn về BVMT cấp tỉnh”. Đồng thời để tránh xảy ra sự cố môi trường trong quá trình quản lý chất thải nguy hại, Khoản 2 Điều 70 quy định: “Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện về nhân lực quản lý chất thải nguy hại thì được cấp giấy phép, mã số hoạt động quản lý chất thải nguy hại” [11].

Theo số liệu thu thập, trong số 14 cơ sở được điều tra có 6/14 cơ sở công nghiệp (chiếm khoảng 42,86%) đã đăng ký chủ nguồn thải chất thải rắn nguy hại với Sở Tài nguyên môi trường bao gồm: Công ty TNHH Sumirubber Việt Nam, Công ty TNHH Yazaki Hải Phòng – Việt Nam, Công ty TNHH Johuku Hải Phòng, Cơ sở mạ tư nhân Thế Hùng, Công ty cổ phần đầu tư và thương mại Tân Hương, Công ty TNHH Một thành viên Đóng tàu Phà Rừng. Ngoài ra các cơ sở này đã làm thủ tục cấp phép quản lý chất thải nguy hại theo Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26-12-2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ đăng ký, cấp phép, hành nghề mã số quản lý chất thải nguy hại. ( Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường )

Như vậy, quản lý chất thải rắn nguy hại vẫn đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Đa số các cơ sở công nghiệp chưa có quá trình kiểm kê, đăng ký chủ nguồn thải nên cũng chưa có số liệu cụ thể về lượng và tính chất của loại chất thải này. Phần lớn chất thải rắn nguy hại được thu gom và chôn lẫn với rác thải sinh hoạt, gây ra mối nguy cơ tiềm tàng rất nguy hiểm, gây ô nhiễm môi trường đất và nước

Mời bạn tham khảo thêm:

Khóa luận: Giải pháp nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Khóa luận: Thực trạng tình hình tuân thủ Luật bảo vệ môi trường […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993