Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam tại Hà Nội

Rate this post

Nhằm tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp để giải quyết những vấn đề bất cập nêu trên, tác giải lựa chọn vấn đề: “Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nộicho luận văn của mình với mục đích nêu ra những bất cập còn tồn tại trong lĩnh vực đăng ký hộ kinh doanh từ thực trạng của quận Hoàng Mai và cũng qua đó đưa ra những biện pháp giải quyết những hạn chế đó để hoàn thiện quy trình thủ tục hành chính. Dưới đây là Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam tại Hà Nội, mời các bạn đọc giả cùng tham khảo

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoàng Mai là một quận của thành phố Hà Nội. Hiện nay, Hoàng Mai là một quận có tốc độ đô thị hóa nhanh, với các công trình nhà chung cư cao tầng và các khu đô thị mới đang hoàn thiện như: Định Công, Bắc Linh Đàm, Nam Linh Đàm, Đại Kim, Kim Văn – Kim Lũ, Đền Lừ, Đồng Tầu, Pháp Vân, Tứ Hiệp, Thịnh Liệt. Do đó, hộ kinh doanh tại quận Hoàng Mai phát triển mạnh, ngày càng nhiều hộ kinh doanh được thành lập tại đây. Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với mô hình hộ kinh doanh còn đang gặp nhiều khó khăn bởi các quy định của pháp luật về hộ kinh doanh chưa đầy đủ và chưa được người dân quan tâm thực hiện. Theo thống kê trên địa bàn quận, số hộ kinh doanh có giấy phép đăng ký hộ kinh doanh chiếm tỷ lệ thấp so với số hộ kinh doanh hoạt động trong thực tế. Điều này một mặt gây khó khăn cho cơ quan quản lý, một mặt gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra, hệ thống các quy định của pháp luật về hộ kinh doanh hiện nay còn nằm rải rác ở nhiều văn bản luật, không có tính tập trung, các quy định của pháp luật về hộ kinh doanh còn khá chung chung, gây khó khăn khi áp dụng thực tế. Luật Doanh nghiệp năm 2014 mới chỉ tập trung hướng dẫn vào những vấn đề xoay quanh các loại hình doanh nghiệp mà bỏ qua không đề cập đến loại hình kinh doanh do cá nhân hoặc một nhóm cá nhân thành lập hay ngắn gọn là hộ kinh doanh. Điều đó, vô hình chung đã tạo không ít khó khăn cho các cơ quan quản lý trong quá trình hướng dẫn người dân khi đăng ký kinh doanh theo đúng pháp luật.

Nhằm tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp để giải quyết những vấn đề bất cập nêu trên, tác giải lựa chọn vấn đề: “Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” cho luận văn của mình với mục đích nêu ra những bất cập còn tồn tại trong lĩnh vực đăng ký hộ kinh doanh từ thực trạng của quận Hoàng Mai và cũng qua đó đưa ra những biện pháp giải quyết những hạn chế đó để hoàn thiện quy trình thủ tục hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vì việc tiếp cận đề tài còn khó khăn và điều kiện tài liệu tham khảo ít ỏi nên có rất ít những công trình nghiên cứu vấn đề này như:

  • “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra bất cập” – Tạp chí khoa học của tác giả Ngô Huy Cương (Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009);
  • “Một số vấn đề về chủ thể kinh doanh” – Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp của tác giả Phan Công Thương, năm 2007;
  • “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam” – Luận văn thạc sỹ Luật học của tác giả Hoàng Minh Sơn (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012);
  • “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra bấp cập” – Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội của TS. Ngô Huy Cương, năm 2009;
  • “Địa vị pháp lý của hộ kinh doanh – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” – Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Thị Ngọc Ánh (Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội năm 2014);
  • Sách chuyên khảo “Một số quy định mới về hộ kinh doanh nhỏ” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2003;
  • “Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh; khởi nghiệp sáng tạo và tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị” – Tạp chí Nghề Luật của tác giả Nguyễn Thị Lệ Quyên năm 2017;
  • “Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các hộ kinh doanh trên địa bàn thành phố Vũng Tàu” – Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Khuất Thị Thu Hà (Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội năm 2013)

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

  • Mục đích nghiên cứu

Đề tài được tác giả lựa chọn làm luận văn với mục đích là làm rõ các quy định của pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh để từ đó đưa ra được các phương hướng giải quyết những bất cập trên thực tế khi thực thi pháp luật.

  • Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau:

  • Nghiên cứu lý luận chung về đăng ký hộ kinh doanh
  • Nghiên cứu phân tích thực tiễn về đăng ký hộ kinh doanh tại địa bàn quận Hoàng Mai, Hà Nội
  • Đánh giá, đưa ra giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh tại Việt

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề pháp lý cơ bản của pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ kinh doanh thực tiễn từ quận Hoàng Mai, Hà Nội

  • Phạm vi nghiên cứu

Những vấn đề pháp lý về hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam cụ thể từ Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Thương mại 2005, Nghị định 01/2021/NĐ- CP và thực tiễn trên địa bàn quận Hoàng Mai, Hà Nội.( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin trong việc nghiên cứu bản chất, nguồn gốc của sự vật, hiện tượng; nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của sự vật, hiện tượng; nghiên cứu sự vật, hiện tượng đặt trong mối quan hệ tương tác với sự vật, hiện tượng khác …

– Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài này tác giả ngoài sử dụng các phương pháp luận thì còn phải kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích và phương pháp so sánh

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn có ý nghĩa là làm sáng tỏ những nội dung liên quan đến đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam và đánh giá thực tế trên địa bàn quận Hoàng Mai, Hà Nội còn đang tồn tại những bất cập nào để từ đó đưa ra những định hướng, phương pháp cải thiện để hệ thống pháp luật Việt Nam hoàn chỉnh và chặt chẽ hơn.

7. Kết cấu của luận văn( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Ngoài phần lời cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục với 03 chương cụ thể như sau:

  • Chương 1. Những vấn đề lý luận về đăng ký hộ kinh doanh
  • Chương 2. Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
  • Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật đăng ký hộ kinh doanh tại Việt Nam

CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH 

1.1. Khái quát về đăng ký hộ kinh doanh

1.1.1. Khái niệm hộ kinh doanh

Theo khoản 1 Điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/01/2021 quy định về đăng ký doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là Nghị định số 01/2021/NĐ-CP): “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh.”

Từ quy định trên, có thể hiểu hộ kinh doanh là tên gọi để chỉ những cá nhân, hoặc hộ gia đình kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có cùng chung ý chí, mục đích, lợi nhuận, có đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Trước đây, tại các văn bản luật, loại hình hộ kinh doanh được gọi với tên khác là “hộ kinh doanh cá thể”. Tên gọi này được sử dụng từ Nghị định số 02/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/02/2020 về đăng ký kinh doanh (sau đây gọi tắt là Nghị định số 02/2000/NĐ-CP) để thay thế cho hai loại chủ thể là cá nhân kinh doanh và nhóm kinh doanh được nêu tại các văn bản luật trước đó. Thời điểm đó, “hộ kinh doanh cá thể” chỉ có thể do cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ. Tuy nhiên, kể từ Nghị định số 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh (sau đây gọi là Nghị định số 88/2006/NĐ-CP) cho đến Nghị định số 43/2010/NĐ-CP, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP và Nghị định 01/2021/NĐ-CP đang có hiệu lực hiện nay thì thuật ngữ “hộ kinh doanh cá thể” được thay thế bởi thuật ngữ “hộ kinh doanh”. Về bản chất, chúng không có sự thay đổi. Tuy nhiên, về chủ thể được phép thành lập và hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh đã được pháp luật bổ sung thêm, đó là pháp luật cho phép “một nhóm người” đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định cũng được phép đăng ký thành lập hộ kinh doanh.( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Khoản 2 Điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP không coi các hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, làm dịch vụ có thu nhập thấp là hộ kinh doanh. Mặc dù những đối tượng này có thể tiến hành một số hoạt động kinh doanh cụ thể như bán các sản phẩm mình tạo ra, mua đi bán lại các mặt hàng nhỏ lẻ, hoặc sử dụng các dịch vụ có thu nhập thấp để kiếm lời nhưng quy mô nhỏ và pháp luật không yêu cầu đăng ký kinh doanh. Quy định này nhằm phân chia các đối tượng thực hiện kinh doanh dựa trên quy mô kinh doanh, cụ thể: ở tầm doanh nghiệp có doanh nghiệp tư nhân, ở tầm thấp hơn có hộ kinh doanh, cuối cùng là quy mô nhỏ lẻ là các đối tượng có tính chất giống như hộ kinh doanh nhưng không phải đăng ký kinh doanh.

Hiện nay, tại một số quốc gia trên thế giới quy định về loại hình kinh doanh có một số điểm tương đồng với hộ kinh doanh ở nước ta. Cụ thể: pháp luật của Anh quan niệm: Thương nhân đơn lẻ (sole trader) là một người tiến hành kinh doanh với tài khoản của mình; tự lựa chọn nơi thích hợp để hoạt động: có hoặc không có sự trợ giúp của người làm công trong kinh doanh; vốn góp ban đầu là nguồn vốn cá nhân do tiết kiệm hoặc vay mượn cá nhân. Pháp luật Hoa Kỳ quan niệm: Doanh nghiệp cá thể (sole proprietorship) là một doanh thương (a business) được vận hành bởi một người như một tài sản cá nhân của người đó; và doanh nghiệp (enterprise) này là một sự mở rộng đơn thuần của chủ sở hữu cá nhân (individual owner). Thương nhân đơn lẻ hay doanh nghiệp cá thể theo các quan niệm này là một hình thức kinh doanh có kết cấu khác với các hình thức kinh doanh khác như hợp danh hay các công ty. Quan niệm này hoàn toàn trùng hợp với quan niệm của các luật gia Việt Nam ở các chế độ cũ. Họ xem thương nhân thể nhân là cá nhân (có hình hài, cốt nhục) kinh doanh khác biệt hẳn với các thương nhân pháp nhân là các tổ chức hay đoàn thể được tạo lập bởi sự góp vốn của các nhà đầu tư mong muốn tìm kiếm lợi nhuận. Các tổ chức này được gọi là các công ty. Mỗi loại công ty có những khía cạnh pháp lý riêng về thành lập và vận hành. Những khía cạnh pháp lý này không có liên quan gì với thương nhân thể nhân. Khi nói về thương nhân theo pháp luật của Pháp (1807). Tại đó, thương nhân có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. Thương nhân thể nhân là một cá nhân chuyên thực hiện các hành vi thương mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của mình. Theo hệ thống pháp luật này cá nhân trở thành thương nhân là một vấn đề thực tế được xác định bởi tòa án. Nếu tên một cá nhân xuất hiện trong Sổ đăng ký thương mại tại tòa án thương mại, thì người đó được xem là thương nhân, trừ khi có chứng cứ ngược lại. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay hộ kinh doanh không hoàn toàn là cá nhân kinh doanh. Đôi khi hộ kinh doanh có sự hùn vốn của các cá nhân bởi pháp luật cũng đã mô tả như vây. Vì vậy, nếu quan niệm hộ kinh doanh hay hộ kinh doanh cá thể là cá nhân kinh doanh hay thương nhân đơn lẻ là không hoàn toàn đúng.

1.1.2. Đặc điểm hộ kinh doanh( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Một là, hộ kinh doanh do một cá nhân, hoặc một hộ gia đình làm chủ

Xét trên góc độ pháp lý, hộ kinh doanh phải là các cá nhân, con người cụ thể. Thành viên của hộ kinh doanh không thể là một tổ chức hoặc đại diện được các tổ chức cử ra để tham gia hộ kinh doanh. Đối với hộ kinh doanh do một hộ gia đình làm chủ thì các cá nhân sẽ thỏa thuận với nhau cử ra một đại diện để tham gia vào các quan hệ pháp luật và mối quan hệ giữa các cá nhân đó là quan hệ đồng chủ sở hữu. Các cá nhân muốn tạo lập hộ kinh doanh thì phải đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi, năng lực pháp luật cũng như năng lực hành vi, ngành nghề đăng ký kinh doanh… Đối với hộ kinh doanh, chủ sở hữu có quyền quyết định các vấn đề về cơ cấu tổ chức, hoạt động, vốn đầu tư, mục tiêu và kế hoạch kinh doanh hoặc chấm dứt sự tồn tại của nó. Chính vì vậy, điểm giống nhau giữa doanh nghiệp tư nhân và chủ hộ kinh doanh (do một cá nhân làm chủ) đều là người duy nhất hưởng lợi nhuận phát sinh và chịu toàn bộ rủi ro trong công việc kinh doanh của mình. Trong trường hợp có chung đồng chủ sở hữu, người đại diện của hộ kinh doanh chỉ là người thay mặt tất cả các thành viên khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Riêng lợi nhuận và nghĩa vụ tài sản phát sinh thì quyền và nghĩa vụ của hộ kinh doanh sẽ được chia cho tất cả các thành viên dựa vào điều khoản thỏa thuận của các thành viên, căn cứ vào số vốn góp hoặc công sức góp vốn của mỗi người.

Pháp luật quy định các thành viên của hộ gia đình khi tạo lập hộ kinh doanh phải có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng như ông bà, bố mẹ, con cái trong gia đình, vợ với chồng hoặc bố mẹ với con nuôi. Điều này sẽ tạo nên sức mạnh về kinh tế và một khối thống nhất về ý chí, mục đích trong kinh doanh. Bởi vì, mỗi người trong hộ đều lao động theo khả năng, trách nhiệm gắn bó với vai trò của họ trong gia đình nên mô hình này sẽ ít xảy ra mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, các thành viên có trách nhiệm cao với số tài sản đóng góp của mình và hiệu quả kinh doanh. Đồng thời, trong hộ gia đình mọi người đều biết năng lực, sở trường của từng thành viên nên việc bố trí việc làm sẽ phù hợp, linh động dẫn đến sự đồng thuận, nhất trí cao trong hoạt động của hộ.

Hai là, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân:

Hộ kinh doanh không thỏa mãn điều kiện để một chủ thể có tư cách pháp nhân theo quy định tại Điều 74 Bộ Luật Dân sự năm 2015. Hộ kinh doanh không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hộ kinh doanh không có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó. Hộ kinh doanh không phải là một thực thể tách biệt với cá nhân thành lập nên nó. Mọi tài sản trong hộ kinh doanh đều là tài sản của cá nhân tạo lập nó. Cá nhân tạo lập hộ kinh doanh hưởng toàn bộ lợi nhuận và gánh chịu mọi nghĩa vụ. Hộ kinh doanh không có tài sản riêng thuộc tài sản của hộ kinh doanh, không có sự tách bạch giữa tài sản của thành viên hộ kinh doanh với hộ kinh doanh. Do đó hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân. Hộ kinh doanh không nhân danh hộ kinh doanh tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập mà nhân danh chủ hộ tham gia vào các quan hệ pháp luật.

Ba là, hộ kinh doanh thường kinh doanh với quy mô nhỏ hẹp

Theo quy định của pháp luật, hộ kinh doanh và doanh nghiệp được hoạt động trong nhiều ngành, nghề nhưng các cá nhân khi lựa chọn mô hình hộ kinh doanh thường kinh doanh với số vốn nhỏ, hoạt động đơn giản và dễ kiểm soát. Hộ kinh doanh có quy mô nhỏ hơn doanh nghiệp về các tiêu chí như số lượng người lao động, địa điểm kinh doanh, đất đai, tư liệu sản xuất… Nguyên nhân của sự khác biệt này xuất phát từ lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp thường có phạm vi lớn và ổn định, chủ yếu trong những ngành quan trọng của quốc gia như công nghiệp nặng, dầu khí, xây dựng, giao thông, tài chính… Những ngành này đòi hỏi số vốn đầu tư lớn và trình độ lao động có chuyên môn, nghiệp vụ cao. Cho nên, đối với doanh nghiệp, pháp luật cho phép được mở rộng quy mô sản xuất bằng việc tăng số vốn đầu tư, số lượng công nhân viên, nhà xưởng sản xuất hàng hóa hoặc thành lập các chi nhánh, công ty con, được ưu đãi sử dụng đất đai và các ưu đãi khác.

Trước đây, theo Nghị định số 78/2015/NĐ-CP, số lượng lao động trong hộ kinh doanh không được vượt quá 10 người, nếu trên 10 người thì hộ kinh doanh phải đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định. Khoản 2 Điều 212 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng quy định: “Hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Luật này. Hộ kinh doanh có quy mô nhỏ thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của Chính phủ”. Đồng thời, khi đăng ký kinh doanh, hộ kinh doanh phải xác định rõ địa điểm kinh doanh tại một vị trí nhất định và không được mở chi nhánh hay địa điểm sản xuất kinh doanh khác. Tuy nhiên hiện nay Nghị định 01/2021/NĐ-CP đã bỏ quy định về số lượng lao động đối với hộ kinh doanh.( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Mặc dù quy mô kinh doanh của hộ kinh doanh so với các loại hình doanh nghiệp là nhỏ; nhưng so với loại hình kinh doanh nhỏ, lẻ như hộ nông, lâm ngư nghiệp, bán hàng rong, quà vặt… thì hộ kinh doanh không phải là loại hình kinh doanh có quy mô nhỏ nhất. Các đối tượng trên cũng tiến hành hoạt động kinh doanh nhưng không ổn định. Dấu hiệu để phân biệt giữa hộ kinh doanh với các hình thức kinh doanh trên dựa vào mức thu nhập thấp. Mức thu nhập được coi là thấp dựa vào các quy định cụ thể của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Như vậy, với quy mô sản xuất nhỏ, đòi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng không nhiều lao động, hộ kinh doanh có thể thay đổi linh hoạt phương thức hoạt động kinh doanh để đối phó với những biến động của thị trường và trong công việc có thể dễ dàng quản lý, kiểm soát chặt chẽ. Nhưng hộ kinh doanh ít có điều kiện để trang bị máy móc hiện đại nên thường công nghệ lạc hậu hơn, nhất là trong các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.

Theo quy định của pháp luật, hộ kinh doanh không có con dấu riêng. Điều này là một bất lợi, bởi con dấu gần như được đồng nhất hóa cho sự bảo chứng về tư cách pháp lý của các cơ quan, tổ chức. Nó xác định người đã ký tên, đóng dấu; xác nhận các giấy tờ giao dịch, hồ sơ, tài liệu. Khi đã đóng dấu, trách nhiệm pháp lý của cá nhân, tổ chức được ghi nhận tùy theo hình thức và nội dung của các tài liệu đó.

Bốn là, chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh

Chủ hộ kinh doanh cũng như các thành viên của hộ kinh doanh chịu mọi rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh của hộ; chế độ trách nhiệm trên là vô hạn. Điều đó có nghĩa là: hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của hộ trong phạm vi phần vốn và tài sản dùng để kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Nếu hộ kinh doanh có chung chủ sở hữu thì các thành viên trong hộ phải chịu trách nhiệm bằng tất cả tài sản của mình. Cụ thể, nếu số vốn chung không đủ để trả nợ thì mỗi thành viên sẽ đóng góp thêm bằng tài sản riêng hoặc tài sản dân sự chung của cả hộ để trả nợ. Việc góp thêm này sẽ chỉ chấm dứt khi số nợ của hộ kinh doanh được trả hết. Mức góp thêm của mỗi thành viên phụ thuộc vào thỏa thuận trong hộ kinh doanh. Nếu một số thành viên không có khả năng góp thêm để trả nợ như thỏa thuận thì các thành viên còn lại có nghĩa vụ phải lấy tài sản của mình để tiếp tục trả nợ. Đặc trưng pháp lý này tạo ra một số thuận lợi cơ bản như:

  • Lợi nhuận và khả năng kiểm soát công việc kinh doanh đều thuộc về chủ hộ, vì quyền lực chỉ tập trung ở một hoặc một số nhỏ chủ sở hữu.
  • Toàn bộ tài sản của chủ sở hữu kinh doanh là một bảo đảm cho việc thanh toán các khoản nợ của hộ, cho nên khi tham gia ký kết hợp đồng hoặc huy động nguồn vốn từ ngoài xã hội, hộ kinh doanh tạo được niềm tin về việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản đối với khách hàng và chủ nợ.
  • Khi vay vốn, chủ hộ kinh doanh có thể dễ dàng tiếp cận các khoản tín dụng của ngân hàng do khi xem xét các điều kiện, ngân hàng có thể căn cứ vào tài sản của chủ hộ chứ không chỉ căn cứ vào tài sản của hộ kinh doanh để cho vay vốn.

Nhưng với đặc điểm này, chủ sở hữu chỉ được thành lập duy nhất một hộ kinh doanh. Bên cạnh đó, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân cũng như không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào để thu hút vốn đầu tư. Nếu các cá nhân muốn khắc phục vấn đề trên thì phải lựa chọn loại hình doanh nghiệp, bởi chỉ có các thành viên của công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và thành viên góp vốn của công ty hợp danh mới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp. ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Đặc điểm này của hộ kinh doanh giống với loại hình doanh nghiệp tư nhân. Theo quy định của pháp luật thì doanh nghiệp tư nhân cũng không có tư cách pháp nhân, chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ của doanh nghiệp và cũng chỉ được thành lập duy nhất một doanh nghiệp tư nhân. Điểm khác biệt giữa hộ kinh doanh với doanh nghiệp tư nhân chủ yếu dựa vào quy mô lao động mà pháp luật đã quy định giới hạn đối với hộ kinh doanh.

1.1.3. Quyền và nghĩa vụ của hộ kinh doanh

Việc đăng ký kinh doanh sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ kinh doanh. Trong văn bản luật đầu tiều điều chỉnh về loại hình hộ kinh doanh (tức Nghị định số 66/HĐBT), các nhà làm luật đã liệt kê cụ thể các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào loại hình kinh doanh này. Từ Nghị định số 43/2010/NĐ-CP đến Nghị định số 78/2015/NĐ-CP đều không liệt kê cụ thể các quyền và nghĩa vụ của hộ kinh doanh. Tuy nhiên đến Nghị định 01/2021/NĐ-CP hiện hành đã quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của chủ hộ kinh doanh tại Điều 81. Đồng thời, do hộ kinh doanh là một loại hình tham gia vào quan hệ kinh doanh thương mại, hơn nữa, có thể coi hộ kinh doanh là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên dựa vào các quy định của Hiến pháp hiện hành về quyền tự do kinh doanh và quy định tại Điều 7 và Điều 8 Luật Doanh nghiệp 2014 có thể thấy hộ kinh doanh mang một số quyền và nghĩa vụ cụ thể như sau:

  • Quyền của hộ kinh doanh

Khi thực hiện hành vi đăng ký kinh doanh, hộ kinh doanh đã được Nhà nước thừa nhận là một loại hình kinh doanh và làm phát sinh các quyền được Nhà nước bảo hộ bởi các quy định của pháp luật. Cụ thể:

  • Hộ kinh doanh được Nhà nước bảo hộ hoạt động kinh doanh hợp pháp. Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của loại hình hộ kinh doanh bằng các văn bản pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của hộ kinh doanh với các loại hình kinh doanh khác; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh; công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của hộ kinh doanh; tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của hộ kinh doanh không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.
  • Hộ kinh doanh có quyền tự chủ trong kinh doanh, chủ động lựa chọn ngành nghề kinh doanh và địa điểm kinh doanh khi đăng ký thành lập với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quyền này có thể hiểu là quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh; quyền tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
  • Hộ kinh doanh có quyền chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng kinh doanh. Đây là quyền tự do hợp đồng của hộ kinh doanh. Hộ kinh doanh có quyền ký kết hợp đồng với các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua các hợp đồng như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại…
  • Hộ kinh doanh có quyền tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động. Theo quy định của Bộ luật lao động thì người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao động theo yêu cầu của sản xuất kinh doanh, thông qua giao kết hợp đồng theo nguyên tắc thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ giữa các bên;
  • Hộ kinh doanh có quyền tự chủ quyết định các hoạt động kinh doanh và quan hệ nội bộ;
  • Hộ kinh doanh có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của hộ;
  • Hộ kinh doanh có quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật;

Theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo, công dân, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

  • Nghĩa vụ của hộ kinh doanh

Bên cạnh các quyền được cơ quan nhà nước bảo hộ, hộ kinh doanh còn phải thực hiện một số nghĩa vụ sau:

  • Hộ kinh doanh có nghĩa vụ hoạt động kinh doanh đúng theo ngành, nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Điều này có nghĩa hộ kinh doanh sau khi tiến hành đăng ký kinh doanh chỉ được phép kinh doanh trong phạm vi giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh; nếu muốn phát triển hơn các hoạt động kinh doanh phải đăng ký bổ sung hoặc thực hiện theo quy định của pháp luật.
  • Hộ kinh doanh có nghĩa vụ đăng ký, nộp đầy đủ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật thuế;
  • Hộ kinh doanh có nghĩa vụ bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật;
  • Hộ kinh doanh có nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa đăng ký, vệ sinh, phòng dịch, di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, bảo vệ tài nguyên môi trường và trật tự an toàn xã hội.

1.2. Khái quát pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh

1.2.1. Sự hình thành và phát triển pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Qua các thời kỳ lịch sử, pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về các hình thức tổ chức kinh doanh nói riêng được xây dựng trên nền tảng chính trị – kinh tế – xã hội của đất nước. Sự phản ánh trên là phù hợp với quy luật phát triển và giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn kinh doanh đặt ra. Từ những năm đầu đổi mới, kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đã mở rộng các thành phần kinh tế và cho phép các cá nhân tham gia kinh doanh tự do, bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Trong đó, kinh tế cá thể tiểu chủ được khuyến khích hơn trước nhằm mục đích giải phóng sức lao động, xóa đói giảm nghèo và hiện đại hóa đất nước. Là một trong những hình thức tổ chức kinh tế mới, hộ kinh doanh được điều chỉnh bởi Nghị định số 66/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 2/3/1992. Tên gọi ban đầu của hộ kinh doanh là người kinh doanh. Đây là các cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định được quy định tại Nghị định số 221-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 23/7/1991 quy định về cụ thể hóa một số điều trong Luật Doanh nghiệp tư nhân. Nghị định số 66/HĐBT bước đầu đã quy định đối tượng bị điều chỉnh (điều 1), chủ thể có quyền đăng ký kinh doanh (điều 2), lĩnh vực kinh doanh và thủ tục đăng ký cũng như hoạt động của hộ kinh doanh. Đối với hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, bán quà vặt và dịch vụ có thu nhập thấp, Nghị định này cũng không coi đây là loại hình hộ kinh doanh mà các đối tượng này được điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật khác. Mặc dù vậy, Nghị định số 66/HĐBT vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định khi cơ chế mang nặng tính xin cho, các điều luật vẫn còn chung chung chưa bao quát được nhiều vấn đề.

Nghị định số 66/HĐBT là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh hộ kinh doanh, góp phần giải quyết kịp thời nhu cầu của xã hội. Sau 8 năm thi hành, Nghị định này được thay thế bởi Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000. Nghị định số 02/2000/NĐ-CP đã chuyển tên gọi các đối tượng trên là hộ kinh doanh cá thể và quy định rõ các tiêu chí về hộ kinh doanh như chủ sở hữu, lao động, địa điểm kinh doanh, vốn và trách nhiệm tài sản; trong đó một cá nhân hoặc hộ gia đình là chủ thể duy nhất có quyền đăng ký kinh doanh theo loại hình hộ kinh doanh. Đây là điểm quan trọng góp phần hình thành nên đặc điểm của hộ kinh doanh, là căn cứ để phân biệt với các loại hình tổ chức kinh doanh khác. Ngoài ra, Nghị định số 02/2000/NĐ-CP còn có một số điểm mới như việc pháp luật khẳng định quyền tự quyết trong đăng ký kinh doanh của mỗi chủ thể; cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép là phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện trong thời hạn 7 ngày mà không phải do Chủ tịch huyện xem xét, cấp phép như Nghị định số 66/HĐBT.

Nghị định số 02/2000/NĐ-CP được thay thế bởi Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/04/2004. Về cơ bản, các quy định trong Nghị định số 109/2004/NĐ-CP không sửa đổi nhiều so với trước mà làm rõ hơn một số nội dung quan trọng như hộ kinh doanh chỉ được sử dụng không quá mười lao động và chủ sở hữu chỉ được đăng ký một hộ kinh doanh duy nhất. Với quy định này, pháp luật từng bước giới hạn quy mô kinh doanh của hộ kinh doanh tách bạch với loại hình doanh nghiệp. Ngoài ra, để bảo đảm tính dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa, pháp luật còn cho các cá nhân, hộ gia đình có quyền khiếu nại đến UBND hoặc Tòa hành chính cấp huyện khi đủ các điều kiện quy định mà không được cấp phép đăng ký kinh doanh.

Ngày 01/7/2006, khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, Nghị định số 109/2004/NĐ-CP được thay thế bằng Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006. Với tên gọi là hộ kinh doanh, Nghị định này đã khẳng định rõ “hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam làm chủ”. Do đó, các cá nhân không có quốc tịch Việt Nam sẽ không phải là đối tượng có quyền đăng ký kinh doanh dưới hình thức này. Ngoài ra, Nghị định 88/2006 còn bổ sung một chủ thể mới có quyền thành lập hộ kinh doanh, đó là “một nhóm người”. Trước đó, pháp luật về hộ kinh doanh chỉ quy định cá nhân hoặc hộ gia đình mới có quyền đăng ký hộ kinh doanh; nên với sự thay đổi này, pháp luật dành cho các cá nhân thêm một lựa chọn để hoạt động kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình. Đây không chỉ là bước tiến của pháp luật mà là sự dự đoán xu hướng phát triển tương lai không xa của loại hình này. Ngoài ra, Nghị định số 88/2006 còn bổ sung quy định về địa điểm kinh doanh, tên gọi của hộ kinh doanh và giới hạn đăng ký kinh doanh của chủ hộ. Về thủ tục, Nghị định số 88/2006 đã rút ngắn thời gian thủ tục hành chính hơn so với trước, các chủ thể sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong vòng 5 ngày, sau khi đáp ứng đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Nghị định số 88/2006 được thay thế bởi Nghị định số 43/2010/NĐ-CP; Nghị định 78/2015/NĐ-CP thay thế nghị định số 43/2010/NĐ-CP và hiện nay Nghị định 78/2015/NĐ-CP được thay thế bởi Nghị định 01/2021/NĐ-CP.

Như vậy, ngay từ khi thừa nhận loại hình kinh doanh này là hợp pháp, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật với các quy phạm điều chỉnh quá trình thành lập và hoạt động của hộ kinh doanh. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, các quy định của pháp luật bên cạnh những điểm tích cực đã bộc lộ nhiều hạn chế. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra đối với các nhà làm luật là cần làm rõ các điểm hạn chế của pháp luật về hộ kinh doanh để có những định hướng và có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Trong dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi năm 2020 vẫn có những quy định cụ thể, chi tiết về hộ kinh doanh. Việc đưa nội dung quy định về hộ kinh doanh vào dự thảo Luật như phương án Chính phủ đã trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8. Lý do là xét về bản chất thì việc quy định một chương về hộ kinh doanh trong dự thảo Luật chỉ là việc bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hóa các quy định chung đã có về hộ kinh doanh. Hơn nữa, việc quy định hộ kinh doanh trong dự thảo Luật sẽ có tác động tích cực, xóa bỏ hạn chế về thương quyền và nâng cao địa vị pháp lý của hộ kinh doanh. ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 về đăng ký doanh nghiệp thay thế nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 hiện hành.

Tuy nhiên, sáng 17/6/2020, với 90,68% số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), trong đó không đưa hộ kinh doanh vào Luật để xây dựng một luật riêng với lý do hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp nên không thuộc phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Doanh nghiệp. Ngoài ra, hộ kinh doanh được coi là một hình thức kinh doanh khác biệt với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần. Những quy định về hộ kinh doanh tại dự thảo Luật chỉ mới giải quyết được việc kiểm soát, quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh, mặt khác có thể làm tăng rủi ro, tăng chi phí đối với thành lập và hoạt động của hộ kinh doanh. Bên cạnh đó, chưa có quy định tạo thêm quyền tự do kinh doanh, tăng độ an toàn kinh doanh, tạo thêm thuận lợi cho hộ kinh doanh, cũng như các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hộ kinh doanh. Vì vậy, việc quy định hộ kinh doanh trong dự thảo Luật dẫn đến phải mở rộng thêm phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng cho một chủ thể mới. Đồng thời số lượng về đối tượng chịu tác động của hộ kinh doanh rất lớn, cần có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá thực tiễn và tham vấn để hoàn thiện khung pháp luật tốt nhất điều chỉnh và áp dụng cho chủ thể hộ kinh doanh, tương tự như các hợp tác xã quy định tại Luật Hợp tác xã, tránh những tác động bất lợi tới hoạt động của các hộ kinh doanh.

Mời bạn tham khảo thêm:

Tổng hợp bài mẫu Luận văn Thạc Sĩ

1.2.2. Nội dung pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Việc thành lập hộ kinh doanh rất đơn giản. Pháp luật Việt Nam hiện hành thường chỉ tập trung vào vấn đề đăng ký hộ kinh doanh, còn dường như không kiểm soát quá trình thành lập hộ kinh doanh mặc dù hộ kinh doanh đó được thành lập bởi một hộ gia đình. Tuy nhiên điều kiện để thành lập hộ kinh doanh luôn được đặt ra đối với cá nhân kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh.

Pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh quy định việc đăng ký hộ kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện đăng ký hộ kinh doanh như: điều kiện về ngành, nghề kinh doanh; điều kiện về đặt tên hộ kinh doanh; điều kiện về nộp lệ phí đăng ký theo quy định của pháp luật doanh nghiệp.

Trong đó, điều kiện về ngành, nghề kinh doanh được quy định cụ thể tại Điều 89 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp cụ thể là:

Hộ kinh doanh được quyền kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện kể từ khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và phải bảo đảm đáp ứng các điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt động. Việc quản lý nhà nước đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và kiểm tra việc chấp hành điều kiện kinh doanh của hộ kinh doanh thuộc thẩm quyền của cơ quan chuyên ngành theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền về việc hộ kinh doanh kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện nhưng không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện ra Thông báo yêu cầu hộ kinh doanh tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, đồng thời thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều kiện về đặt tên hộ kinh doanh được quy định tại Điều 88 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp cụ thể : hộ kinh doanh phải gồm hai thành tố theo thứ tự: Cụm từ “Hộ kinh doanh” và Tên riêng của hộ kinh doanh. Tên riêng được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc để đặt tên riêng cho hộ kinh doanh. Hộ kinh doanh không được sử dụng các cụm từ “công ty”, “doanh nghiệp” để đặt tên hộ kinh doanh. Tên riêng này không được trùng với tên riêng của hộ kinh doanh đã đăng ký trong phạm vi cấp huyện.

Bên cạnh những điều kiện trên thì hộ kinh doanh phải thực hiện nghĩa vụ nộp đầy đủ lệ phí đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Hộ kinh doanh chỉ được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kể trên.

Quy chế pháp lý của hộ kinh doanh có sự khác biệt với quy chế pháp lý đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Thứ nhất, sự khác biệt giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân được xem xét trên các mặt sau:

Về chủ thể, doanh nghiệp tư nhân: do một cá nhân làm chủ góp toàn bộ vốn, tự chịu toàn bộ lợi ích, trách nhiệm. Điều kiện làm chủ của doanh nghiệp tư nhân là công dân Việt Nam trên 18 tuổi, có thể là người nước ngoài nhưng phải thỏa mãn các điều kiện về hành vi thương mại do pháp luật đất nước đó quy định

Hộ kinh doanh: do cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm, một hộ gia đình làm chủ, cùng nhau quản lý, phát triển mô hình và cùng chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.

Về quy mô kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân: lớn hơn; không giới hạn quy mô, vốn, địa điểm kinh doanh; không được phép xuất khẩu, nhập khẩu ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Hộ kinh doanh: nhỏ hơn; kinh doanh buôn bán phải lựa chọn một địa điểm cố định để đăng ký kinh doanh, có thể là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi tạm trú hoặc địa điểm thường xuyên kinh doanh nhất; nếu buôn bán lưu động, kinh doanh ngoài địa điểm kinh doanh phải thông báo cho cơ quan thuế, quản lý kinh doanh; không được phép xuất khẩu, nhập khẩu.

Về điều kiện kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân: phải đăng kí ở cơ quan đăng kí kinh doanh cấp tỉnh để được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; có con dấu.

Hộ kinh doanh: đăng ký kinh doanh ở cơ quan cấp huyện và không có con dấu.

Về ưu điểm: doanh nghiệp tư nhân: một chủ đầu tư, thuận lợi trong việc quyết định các vấn đề của doanh nghiệp, dễ dàng vay vốn do chế độ chịu trách nhiệm của mình

Hộ kinh doanh: quy mô gọn nhẹ, chế độ chứng từ sổ sách kế toán đơn giản, phù hợp với cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ.

Về nhược điểm: doanh nghiệp tư nhân: không có tư cách pháp nhân, chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản của chủ doanh nghiệp

Hộ kinh doanh: không có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của chủ hộ, tính chất hoạt động manh mún.

Thứ hai, sự khác biệt giữa hộ kinh doanh và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:

Về đặc điểm:

Hộ kinh doanh: Do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc 1 hộ gia đình làm chủ; không có tư cách pháp nhân; không được phép phát hành cổ phiếu hay trái phiếu; chịu trách nhiệm vô hạn.

Công ty TNHH 1 thành viên: Có số lượng chủ sở hữu (thành viên) là 1; thành viên có thể là tổ chức hoặc cá nhân, có tư cách pháp nhân; không được phát hành cổ phiếu nhưng được phát hành trái phiếu; chịu trách nhiệm hữu hạn.

Về quy chế pháp lý:

Hộ kinh doanh: Xác lập tư cách chủ sở hữu: cá nhân, hộ gia đình đáp ứng điều kiện có quyền đăng ký kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh; chấm dứt hoạt động kinh doanh: do ý chí của cá nhân hoặc nguyên tắc đa số (hộ gia đình), bị thu hồi giấy chứng nhận ĐKKD; chủ sở hữu toàn quyền quyết định về hoạt động kinh doanh của mình

Công ty TNHH 1 thành viên: Xác lập tư cách thành viên: thành lập công ty, nhận chuyển nhượng để sở hữu toàn bộ vốn điều lệ của công ty TNHH; chấm dứt tư cách thành viên: chuyển nhượng toàn bộ vốn điều lệ cho người khác, thành viên là cá nhân bị chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, thành viên là tổ chức bị giải thể hoặc phá sản; mỗi cá nhân hay tổ chức không hạn chế về quyền làm chủ sở hữu của công ty TNHH 1 thành viên; các quyết định liên quan đến hoạt động của công ty phải thông qua cuộc họp của hội đồng thành viên. ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Về cơ cấu tổ chức:

Hộ kinh doanh: Chủ hộ hoặc các thành viên trong nhóm, trong hộ toàn quyền quyết định; không cần bổ nhiệm người đại diện; chủ sở hữu chịu toàn bộ trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kinh doanh của mình

Công ty TNHH 1 thành viên: Cơ cấu tổ chức tuân thủ theo quy định chặt chẽ của pháp luật: có người đại diện theo pháp luật và theo ủy quyền, có cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ.

Về vốn và chế độ tài chính:

Hộ kinh doanh: Chủ yếu vốn của hộ kinh doanh là tài sản riêng của chủ sở hữu, hộ kinh doanh được huy động vốn, vay mượn từ cá nhân hay tổ chức tín dụng và chịu trách nhiệm vô hạn. Chế độ tài chính: chủ sở hữu có toàn quyền rút vốn, ngừng kinh doanh hay chuyển nhượng tài sản của mình cho cá nhân khác, hộ kinh doanh tăng hay giảm vốn tùy vào tình hình hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh

Công ty TNHH 1 thành viên: Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên góp hoặc cam kết góp trong 1 thời hạn nhất định và được ghi vào điều lệ công ty. Chế độ tài chính: chuyển nhượng vốn điều lệ. Hạn chế đối với quyền của chủ sở hữu công ty: không được giảm vốn điều lệ, tăng vốn điều lệ bằng cách đầu tư thêm hoặc huy động thêm vốn góp của người khác (trường hợp này chuyển đổi thành công ty TNHH 2 thành viên trở lên).

Hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp nên có sự khác biệt căn bản với các loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp tư nhân, các loại hình công ty, do vậy Luật doanh nghiệp năm 2020 không đưa hộ kinh doanh vào Luật. Đây được coi là một hình thức kinh doanh khác biệt nên pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh cũng khác biệt so với pháp luật đăng ký kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp.

Nghị định số 01/2021 ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 04/01/2021 thay thế cho

Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp hiện nay có quy định thêm một số điểm mới như:

  1. Quy định mới về địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh

Điều 86 Nghị định 01/2021/NĐ-CP quy định về địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh như sau:

“1. Địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh là nơi hộ kinh doanh thực hiện hoạt động kinh doanh.

  1. Một hộ kinh doanh có thể hoạt động kinh doanh tại nhiều địa điểm nhưng phải chọn một địa điểm để đăng ký trụ sở hộ kinh doanh và phải thông báo cho cơ quan quản lý thuế, cơ quan quản lý thị trường nơi tiến hành hoạt động kinh doanh đối với các địa điểm kinh doanh còn lại.”
  • Điều 72 Nghị định 78/2015/NĐ-CP quy định về địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh như sau:

“Đối với hộ kinh doanh buôn chuyến, kinh doanh lưu động thì phải chọn một địa điểm cố định để đăng ký hộ kinh doanh. Địa điểm này có thể là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi đăng ký tạm trú hoặc địa điểm thường xuyên kinh doanh nhất, nơi đặt địa điểm thu mua giao dịch. Hộ kinh doanh buôn chuyến, kinh doanh lưu động được phép kinh doanh ngoài địa điểm đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nhưng phải thông báo cho cơ quan thuế, cơ quan quản lý thị trường nơi đăng ký trụ sở và nơi tiến hành hoạt động kinh doanh.” ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Không hạn chế thời gian tạm ngừng kinh doanh đối với hộ kinh doanh Khoản 1 Điều 76 Nghị định 78/2015 quy định trường hợp hộ kinh doanh tạm ngừng kinh doanh từ 30 ngày trở lên, hộ kinh doanh phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế trực tiếp quản lý. Thời gian tạm ngừng kinh doanh không được quá 01 năm.

Tuy nhiên, Nghị định 01/2021 không còn quy định hạn chế “Thời gian tạm ngừng kinh doanh không được quá 01 năm.” nữa.

  • Điểm mới trong Thông báo chấm dứt hoạt động hộ kinh doanh

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 92 Nghị định 01/2021 thì khi chấm dứt hoạt động kinh doanh, hộ kinh doanh phải gửi Thông báo về việc chấm dứt hoạt động hộ kinh doanh đến Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng ký, kèm theo thông báo phải có các giấy tờ sau đây:

  • Thông báo về việc chấm dứt hiệu lực mã số thuế của Cơ quan thuế;
  • Bản sao biên bản họp thành viên hộ gia đình về việc chấm dứt hoạt động hộ kinh doanh đối với trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh;
  • Bản gốc giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh

(Quy định cũ tại Điều 77 Nghị định 78/2015 không quy định rõ các giấy tờ phải nộp kèm theo Thông báo về việc chấm dứt hoạt động hộ kinh doanh).

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ( Luận văn Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam )

Ngay từ khi thừa nhận loại hình hộ kinh doanh, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật với các quy phạm điều chỉnh quá trình thành lập và hoạt động của hộ kinh doanh. Việc đăng ký hộ kinh doanh và pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh có sự khác biệt với việc đăng ký doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, các quy định của pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh bên cạnh những điểm tích cực vẫn bộc lộ những hạn chế. Việc nghiên cứu về đặc trưng của hộ kinh doanh, vấn đề đăng ký hộ kinh doanh nhằm làm rõ các điểm hạn chế của pháp luật về hộ kinh doanh để có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế; tạo điều kiện thực hiện quyền tự do kinh doanh, tăng độ an toàn kinh doanh, tạo thuận lợi cho hộ kinh doanh; cũng như các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hộ kinh doanh.

Mời bạn tham khảo thêm:

 Luận văn Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993