Luận văn Quy định Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn Quy định Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn Quy định Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ

2.1.    Các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt, thông báo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

2.1.1.  Văn bản tố tụng dân sự do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo

Có thể thấy rằng Điều 171 BLTTDS năm 2015 đã liệt kê cụ thể một số loại văn bản tố tụng, giấy tờ do Tòa án thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo. Ngoài ra tại khoản 5 của Điều luật này còn có quy định mang tính chất mở, đó là “các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định”. Sở dĩ các nhà lập pháp đưa ra điều luật này là do trong quá trình thực hiện các giai đoạn, thủ tục tố tụng dân sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải ban hành nhiều văn bản tố tụng khác nhau. Do vậy việc liệt kê các văn bản sẽ là không đủ để có bao quát hết cũng như làm giới hạn phạm vi văn bản tố tụng mà cơ quan có thẩm quyền sẽ ban hành. Khoản 5 điều luật quy định mở sẽ góp phần hạn chế được tính lạc hậu của quy phạm, đồng thời đáp ứng nhu cầu bổ sung các văn bản tố tụng trong tương lai một cách dễ dàng và khoa học. Trên thực tế, các loại văn bản tố tụng do Tòa án ban hành bao gồm:

  • Các bản án: đây là văn bản tố tụng thể hiện kết quả xét xử của Tòa án về một vụ việc dân sự. Trong bản án phải nêu rõ: thời gian mở phiên tòa, thành phần HĐXX, các bên tham gia tố tụng, nội dung sự việc, nhận định và quyết định của Tòa án. Thông thường nếu phân loại theo cấp xét xử thì bản án có hai loại là bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm.
  • Trích lục bản án: là sao chép lại nguyên văn những nội dung cần thiết trong bản án theo quy định của pháp luật (thông thường nội dung sao chép là phần quyết định trong bản án). Trích lục chỉ có giá trị pháp lý khi được cơ quan hoặc người có thẩm quyền chứng thực. Theo quy định của pháp luật, sau khi tuyên án, Tòa án phải cấp trích lục bản án cho đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ khi có yêu cầu. Ngoài ra Tòa án cũng có thể cấp trích lục bản án cho cơ quan, cá nhân khác nếu có yêu cầu nếu xét thấy việc cấp trích lục bản án là cần thiết để có cơ sở giải quyết những việc có liên quan đến vụ án. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )
  • Các loại quyết định như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự; Quyết định chuyển vụ án; Quyết định định giá tài sản; Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ; Quyết định thay đổi, áp dụng, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyết định giải quyết việc dân sự; Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm… Trong đó, Quyết định của tòa án là văn bản tố tụng dân sự thể hiện nhận định và ý chí của Tòa án về một vấn đề cụ thể đang được xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự; được áp dụng một lần với một hay một số người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người có liên quan.
  • Các loại thông báo như: Thông báo yêu cầu bổ sung đơn khởi kiện; Thông báo trả lại đơn khởi kiện; Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí định giá, giám định; Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; Thông báo thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa; Thông báo về việc kháng cáo; Thông báo về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo kháng nghị phúc thẩm … Việc ban hành các thông báo này nhằm truyền tải thông tin đến người nhận, báo cho đương sự, những người tham gia tố tụng được biết nội dung chính mà Toà án sẽ tiến hành làm việc để giải quyết vụ việc cụ thể nào đó.
  • Các loại giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự. Đây là các văn bản tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án ban hành; được cấp, tống đạt hoặc thông báo đến người tham gia tố tụng, người có liên quan để biết và thực hiện. Giữa các văn bản này khác nhau ở điểm:

+ Đối với giấy báo, đây là văn bản tố tụng mang tính chất truyền tải thông tin từ cơ quan tiến hành tố tụng,cơ quan thi hành án đến người tiếp nhận để họ được biết và sử dụng các thông tin đó. Các loại giấy báo như: giấy báo nhận đơn, giáo báo đương sự tham gia phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải…

+ Giấy triệu tập là văn bản tố tụng mang tính cưỡng chế, buộc người tiếp nhận phải thực hiện đúng theo nội dung văn bản. Trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì phải các chế tài hành chính hoặc nặng nhất là truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy thuộc vào tính chất, mức độ cụ thể của hành vi. Các loại giấy triệu tập như: Giấy triệu tập lấy lời khai, Giấy triệu tập tham gia hòa giải, Giấy triệu tập tham gia phiên toà xét xử…

+ Giấy mời được coi là văn bản tố tụng dễ chịu hơn giấy triệu tập. Đây là lời mời từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan THA đề nghị người tiếp nhận cùng hợp tác giải quyết vụ việc dân sự hoặc thi hành án dân sự. Với văn bản tố tụng này, người tiếp nhận có quyền từ chối và không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào. Các loại giấy mời như: Giấy mời Hội thẩm nhân dân, Giấy mời Kiểm sát viên tham gia phiên toà; Giấy mời tham gia định giá tài sản.

  • Đơn khởi kiện, đơn kháng cáo. Trong đó: đơn khởi kiện là văn bản tố tụng do cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi một hoặc nhiều chủ thể khác hay người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu Tòa án có thẩm quyền công nhận và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó. Quy định về đơn khởi kiện được quy định tại các Điều 189, 190 BLTTDS. Còn đơn kháng cáo là văn bản tố tụng do đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đang còn trong thời gian kháng cáo. Đơn kháng cáo hợp lệ là đơn đáp ứng đầy đủ các quy định tại Điều 272 BLTTDS năm
  • Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Mục đích của loại văn bản này là nhằm xác nhận sự việc đương sự đã nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, đơn đề nghị tại cơ quan Toà án cùng với các giấy tờ, tài liệu kèm theo để làm căn cứ cho yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự của họ. Trong nội dung của giấy xác nhận, thông thường Toà án cũng nêu rõ thời gian, địa điểm mà đương sự có thể đến nhận kết quả trả lời đơn. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )
  • Các loại biên bản như: biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, biên bản phiên toà, biên bản hòa giải thành, biên bản về việc giao nhận chứng cứ, biên bản làm việc, biên bản xác minh, biên bản lấy lời .. Bằng việc lập biên bản, thẩm phán hoặc thư ký ghi chép lại những sự việc thực tế đã và đang xảy ra trong quá trình giải quyết vụ việc, các biên bản này sẽ được lưu vào hồ sơ vụ án và sử dụng chúng để làm căn cứ chứng minh cho việc thực hiện các thủ tục tố tụng theo trình tự luật định. BLTTDS năm 2015 cũng đưa ra quy định cụ thể về thẩm quyền, nội dung, hình thức đối với việc lập biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; biên bản phiên toà tại Điều 211 và Điều 236. Bởi đây là 2 loại văn bản quan trọng trong việc đánh giá sự thật khách quan của vụ việc, là căn cứ để thẩm phán ra các quyết định theo đúng quy định pháp luật.

Trong quá trình áp dụng pháp luật, để soạn thảo và ban hành đúng, thống nhất các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án, ngày 13/01/2017 Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ban hành 93 biểu mẫu trong TTDS, được quy định rõ tại Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/02/2017). Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế, giúp cho các cơ quan tố tụng khỏi lúng túng trong việc ban hành VBTTDS theo thẩm quyền.

Tùy từng loại văn bản tố tụng khác nhau mà thời hạn thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự là khác nhau. Tại Điều 269 BLTTDS năm 2015 thì các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện được Toà án cấp trích lục bản án trong thời hạn 03 ngày làm việc ngày kết thúc phiên toà. Đối với Thông báo về việc thụ lý vụ án phải được thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với các loại Quyết định như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho đương sự và VKS cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định (Điều 220); Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải được cấp cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và VKS cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định (khoản 2 Điều 214, khoản 3 Điều 217); Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự phải được gửi cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và VKS cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án không còn (Điều 216). Đối với đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay bằng văn bản cho VKS cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo kèm theo bản sao đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ bổ sung mà người kháng cáo gửi kèm đơn kháng cáo sau khi nhận được đơn kháng cáo hợp lệ (Điều 277).

2.1.2.  Văn bản tố tụng dân sự do Viện kiểm sát cấp, tống đạt, thông báo

Theo quy định của BLTTDS, đối tượng văn bản được VKS thông báo bao gồm:

  • Quyết định kháng nghị (Điều 281)

Quyết định kháng nghị là văn bản tố tụng do VKS cùng cấp với Tòa án cấp sơ thẩm hoặc VKS cấp trên trực tiếp, yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. VKS ra quyết định kháng nghị phải gửi ngay quyết định kháng nghị cho đương sự có liên quan đến kháng nghị được biết (khoản 1 Điều 281 BLTTDS năm 2015). ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

  • Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 331, 336)

Giám đốc thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 336 BLTTDS năm 2015 thì ngay sau khi ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, VKS phải gửi ngay quyết định đó cho Toà án đã ra bản án, quyết định; các đương sự; cơ quan THADS; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể thời gian VKS phải gửi quyết định cho đương sự và các cơ quan có thẩm quyền theo luật định mà chỉ quy định chung chung rằng “phải gửi ngay” (tương tự quy định tại khoản 1 Điều 281). Điều này sẽ gây ra những khó khăn nhất định trong quá trình áp dụng pháp luật cũng như trong việc xác định thời điểm mà VKS thực hiện hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS.

  • Quyết định kháng nghị tái thẩm (Điều 354)

Tái thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhưng bị kháng nghị do phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án, quyết định đó. Theo quy định tại Điều 357 BLTTDS năm 2015 thì “các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện như các quy định về thủ tục giám đốc thẩm”. Do vậy quyết định kháng nghị tái thẩm cũng là VBTTDS mà Viện kiểm sát thực hiện cấp, tống đạt, thông báo. Sau khi nhận được quyết định, bản án của Tòa án, nếu có căn cứ kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm thì trong thời hạn luật định, VKS phải thông báo quyết định kháng nghị cho Tòa án có thẩm quyền và các đương sự có liên quan trong vụ án.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 269 BLTTDS năm 2015 thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và VKS cùng cấp. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của VKS cùng cấp là 15 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 01 tháng kể từ ngày tuyên án (Điều 280). Việc quy định về thời hạn kháng nghị như trên trên thực thế còn tồn tại một số bất cập bởi liên hệ với Điều 269 ta có thể thấy thời hạn gửi hoặc chuyển giao Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm cho VKS cùng cấp là 10 ngày kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp sau khi tuyên án, Tòa án không gửi ngay Bản án cho VKS mà đến hạn vào ngày thứ 10 theo quy định Tòa án mới gửi Bản án cho VKS, như vậy, VKS chỉ còn lại 05 ngày để xem xét bản án và ra quyết định kháng nghị, thậm chí thời hạn này sẽ chỉ còn lại là 03 ngày nếu như ngày thứ 10 Tòa án gửi Bản án cho VKS nhưng lại là ngày thứ sáu trong tuần (vì VKS sẽ mất thêm 2 ngày nghỉ vào thứ 7 và chủ nhật). Như vậy việc xem xét, đánh giá bản án, quyết định của Toà án để từ đó VKS đưa ra quyết định kháng nghị sẽ không được đảm bảo về mặt thời gian nghiên cứu để có thể đánh giá một cách toàn diện, khách quan.

2.1.3.   Văn bản tố tụng dân sự do cơ quan Thi hành án dân sự cấp, tống đạt, thông báo

Nếu BLTTDS dành hẳn 1 chương để quy định về cả 3 hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thì Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 lại chỉ tập trung quy định về hoạt động thông báo văn bản với 05 điều luật. Hiện nay, thông báo về thi hành án dân sự được quy định cụ thể tại Điều 39 đến Điều 43 Luật Thi hành án dân sự, Điều 2 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2015 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự, Quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ quan thi hành án dân sự ban hành kèm theo Quyết định số 273/QĐ- TCTHADS ngày 22/02/2017 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, với nhiều công việc phải thực hiện thông báo như: thông báo cưỡng chế thi hành án, thông báo về việc kê biên tài sản, thông báo bán đấu giá tài sản (kể cả thông báo đấu giá quyền sử dụng đất), thông báo về việc giao nhận tài sản (theo văn bản bán đấu giá hoặc biên bản thoả thuận của đương sự), thông báo về việc giải toả kê biên tài sản (theo Điều 105 Luật Thi hành án dân sự), thông báo về việc nhận tiền, tài sản… nhằm đảm bảo các quyền của đương sự được thực hiện một cách công khai, minh bạch. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì cơ quan THA phải thực hiện thông báo đối với 03 loại văn bản tố tụng, đó là:

  • Quyết định về thi hành án như: quyết định THA, quyết định hoãn THA, quyết định tạm đình chỉ THA, quyết định trả đơn yêu cầu THA, quyết định khôi phục thời hiệu THA, quyết định cưỡng chế THA ….
  • Các giấy báo thi hành án: như giấy báo tự nguyện THA, giấy báo đương sự đến giải quyết việc ..
  • Giấy triệu tập thi hành án: Đây là văn bản do Chấp hành viên ban hành để triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc THA. Căn cứ để ban hành giấy triệu tập về THA dựa trên cơ sở, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật
  • Ngoài ra còn có các văn bản khác có liên quan đến việc THA như: Thông báo từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án, thông báo tạm đình chỉ thi hành án, thông báo cưỡng chế thi hành án…

Các văn bản này được ban hành nhằm thông báo cho các đương sự biết nội dung thông tin về THA từ đó giúp họ biết và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Hình thức và nội dung văn bản tố tụng được quy định cụ thể theo mẫu thống nhất tại Phụ lục VI ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT- BTP ngày 01/02/2016 về Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS (Điều 32).

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

2.2.    Chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà mỗi cơ quan tiến hành tố tụng ban hành các loại VBTTDS khác nhau, phù hợp với từng đối tượng cụ thể trong các trường hợp nhất định. Do đó, chủ thể cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự gồm có chủ thể thực hiện và chủ thể được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự (hay còn gọi là chủ thể nhận văn bản).

2.2.1.     Chủ thể thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

  1. Các cơ quan có nghĩa vụ cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Cấp, tống đạt, thông báo VBTT là công cụ hữu ích giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án giải quyết vụ việc và đưa nội dung văn bản tố tụng vào thi hành được nhanh chóng và đúng đắn. Hơn thế nữa nó còn bảo đảm cung cấp các thông tin cần thiết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Về nguyên tắc, cơ quan nào ban hành ra VBTTDS thì cơ quan đó có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo cho đương sự và những người tham gia tố tụng. Nhưng các cơ quan này không được thực hiện nghĩa vụ một cách tuỳ tiện. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

Bên cạnh đó, có những trường hợp người tham gia, thực hiện cấp, tống đạt, thông báo văn bản TTDS không phải là người thuộc các cơ quan ban hành ra VBTTDS mà họ chỉ tham gia với tư cách hỗ trợ, giúp đỡ các cơ quan này. Xuất phát từ nhu cầu thực tế cũng như thực hiện chủ trương cải cách tư pháp được nêu tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nội dung: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình…từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án” mà chế định về Thừa phát lại quy định trở lạimang tính tất yếu, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển của đất nước. Thừa phát lại là hoạt động theo yêu cầu của công dân để ghi nhận các sự kiện pháp lý, lập các vi bằng làm chứng bảo vệ quyền lợi của người yêu cầu hoặc tổ chức thi hành quyền lợi của đương sự theo phán quyết của Tòa án. Như vậy, thông qua hoạt động của thừa phát lại, người dân có thể chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thừa phát lại ra đời đã tạo cho người dân có thêm điều kiện lựa chọn phương thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng một cách phù hợp, giảm tải cho hoạt động của các cơ quan nhà nước. Căn cứ Điều 146 BLTTDS, LTHA và Điều 1, Điều 2 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh thì chủ thể có nghĩa vụ cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS gồm Toà án, VKS, cơ quan THA, văn phòng Thừa phát lại. Trong đó việc thành lập, cơ cấu tổ chức và hoạt động của văn phòng Thừa phát lại được thực hiện theo những quy định và tiêu chuẩn cụ thể mà pháp luật quy định.

b.    Những người tham gia vào hoạt động thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng dân sự

Trước hết, người tham gia vào quá trình cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng là người tiến hành tố tụng của cơ quan ban hành VBTTDS được giao nhiệm vụ cấp,tống đạt, thông báo VBTTDS. Đối với cơ quan Toà án, người có thẩm quyền ký ban hành văn bản tố tụng gồm có: Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử. Người được giao nhiệm vụ cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng chủ yếu là Thư ký toà án, trong một số trường hợp Thẩm phán cũng có thể trực tiếp thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS. Nếu như ở Toà án nhiệm vụ này được coi là công việc thường xuyên của thư ký thì tại ở cơ quan thi hành án, nhiệm vụ này do các chấp hành viên và công chức làm công tác thi hành án đảm nhiệm, VKS có Kiểm sát viên. Còn đối với văn phòng Thừa phát lại, thư ký nghiệp vụ được coi là “người có chức năng tống đạt” (khoản 5 Điều 172 BLTTDS năm 2015) thực hiện tống đạt VBTT khi được Trưởng văn phòng giao nhiệm vụ.

Tiếp đó, tại Điều 172 BLTTDS năm 2015, các nhà làm luật có nêu ra một số chủ thể tham gia vào hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS gồm có: UBND cấp xã nơi người tham gia TTDS cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người tham gia TTDS làm việc khi Toà án yêu cầu; đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; nhân viên tổ chức dịch vụ bưu chính. Đối với công tác THADS, ngoài chấp hành viên và công chức làm công tác THA thì một số chủ thể khác được thực hiện việc thông báo về THA bao gồm: bưu tá; người được cơ quan THA uỷ quyền; tổ trưởng tổ dân phố; trưởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn, phum, sóc; Ủy ban nhân dân, công an cấp xã; Thủ trưởng cơ quan, đơn vị; Giám thị trại giam, trại tạm giam; Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự; Công an cấp huyện nơi người được thông báo có địa chỉ, cư trú, công tác, chấp hành hình phạt tù giao văn bản cần thông báo cho người được thông báo (theo khoản 1 Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS). Mặc dù pháp luật tố tụng dân sự quy định đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là người thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng tuy nhiên gần như không có điều luật nào quy định hay hướng dẫn rõ ràng về các trường hợp đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng. Điều này có thể dẫn đến những vướng mắc, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật.

2.2.2.     Chủ thể được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Căn cứ vào vị trí, vai trò của chủ thể đối với vụ việc dân sự, ta có thể phân loại chủ thể được cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thành 03 nhóm sau:

  • Thứ nhất: chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng, có quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự. Bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người yêu cầu, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
  • Thứ hai: chủ thể không tham gia vào hoạt động tố tụng, không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự nhưng phải thực hiện cấp, tống đạt, thông báo văn bản để làm rõ nội dung, tình tiết sự việc, đảm bảo quá trình giải quyết vụ việc theo đúng pháp luật. Bao gồm: người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, tổ chức giám định, cơ quan định giá tài sản…. Ví dụ: Khi vụ án có người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì Toà án có thể giao trực tiếp VBTT để họ giao lại cho đương sự. Khi giao văn bản, Toà án phải lập biên bản và yêu cầu họ thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ được ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )
  • Thứ ba: chủ thể nhận văn bản chính là cơ quan tiến hành tố tụng. Theo quy định của pháp luật, các cơ quan này phải thực hiện việc giao VBTT cho cơ quan khác để thực hiện việc giám sát hoạt động của cơ quan ban hành văn bản hoặc để các cơ quan có thẩm quyền thi hành các văn bản được ban hành. Ví dụ: VKS là cơ quan nhận thông báo thụ lý vụ án, các quyết định (như quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự), bản án của Toà án. Ngược lại, Toà án cũng là chủ thể nhận các quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của VKS hoặc các thông báo THA của cơ quan THADS. Cơ quan THADS nhận Bản án của Toà án để thi hành.

2.3.   Các phương thức và thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án ban hành rất nhiều các văn bản tố tụng khác nhau như: giấy triệu tập đương sự, giấy báo, thông báo thụ lý vụ án, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định đình chỉ vụ án, bản án… Đối với mỗi loại văn bản lại đòi hỏi phương thức cấp, tống đạt hoặc thông báo phù hợp để đạt được hiệu quả truyền tải thông tin một cách tốt nhất. Hiện nay có nhiều phương thức hiện đại được sử dụng để chuyển giao văn bản và đem lại kết quả tốt trên thực tế.

2.3.1.     Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trực tiếp

  1. Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cá nhân

Trường hợp người được thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng là cá nhân thì người thực hiện phải có nghĩa vụ giao trực tiếp văn bản tố tụng tại nơi cư trú của họ. Người nhận văn bản phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng, đây là cơ sở để xác định tính hợp pháp của hoạt động tống đạt. Trong quá trình cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng nếu người tiếp nhận từ chối nhận văn bản thì người thực hiện phải lập biên bản, nêu rõ lý do của việc từ chối và phải được tổ trưởng tổ dân phố, Ủy ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người đó xác nhận. Quy định này là hoàn toàn hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện việc tống đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

Theo Luật cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) thì nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống, là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cá nhân, cơ quan, tổ chức cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi thường trú và đã đăng ký tạm trú. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo các quy định nói trên thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.

Tại thời điểm chuyển giao văn bản tố tụng, người tiếp nhận vắng mặt (được hiểu vắng mặt trong một thời gian ngắn và xác định được thời gian trở về) thì người thực hiện thông báo, cấp, tống đạt văn bản có thể giao văn bản đó cho người thân thích có cùng nơi cư trú như: ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em… có đủ năng lực hành vi dân sự (tức là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự); yêu cầu người này ký nhận và cam kết sẽ chuyển giao lại cho người có nghĩa vụ tiếp nhận. Ngày chuyển giao văn bản tố tụng là ngày người thân thích của người tiếp nhận ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Trong một trường hợp khác, nếu người tiếp nhận văn bản tố tụng không có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng không chịu nhận hộ thì văn bản tố tụng sẽ được chuyển giao cho tổ trưởng tổ dân phố (hoặc trưởng thôn, làng, ấp, bản), Ủy ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn nơi người tiếp nhận cư trú. Cá nhân, cơ quan. tổ chức có trách nhiệm chuyển giao văn bản tố tụng phải ký nhận và cam kết giao lại tận tay cho người tiếp nhận. Việc thông báo, cấp, tống đạt gián tiếp qua người thân thích có cùng nơi cư trú hoặc thông qua tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, Ủy ban nhân dân xã, phường…nơi người tiếp nhận văn bản cư trú phải được lập thành văn bản. Trong biên bản phải thể hiện rõ người tiếp nhận vắng mặt nêu rõ lý do, văn bản tố tụng đã được chuyển giao cho ai, quan hệ giữa họ với nhau, thời gian giao văn bản, cam kết và chữ ký của người nhận chuyển giao văn bản, người thực hiện và người chứng kiến. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

Trên thực tế, việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng sẽ được thực hiện một cách dễ dàng, thuận lợi khi xác định được địa chỉ nơi cư trú của người tiếp nhận văn bản, kể cả trong trường hợp người đó vắng mặt vì lý do khách quan. Vậy nếu trong trường hợp người tiếp nhận vắng mặt tại nơi cư trú mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ cư trú thì việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng sẽ được thực hiện bằng cách nào? Để giải quyết vấn đề này, pháp luật tố tụng dân sự đã đưa ra hai trường hợp người thực hiện việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng phải lập biên bản về việc không chuyển giao văn bản tố tụng được. Đó là khi có căn cứ cho rằng người tiếp nhận vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ. Trường hợp thứ nhất là người được tiếp nhận vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về được hiểu là đã xác định được địa chỉ của người tiếp nhận nhưng người đó không có mặt tại địa chỉ này vì lý do nào đó như đi tìm việc, đi làm ăn xa… và điều quan trọng là thông tin về việc lúc nào người đó sẽ quay trở lại địa chỉ này lại hoàn toàn không có. Đây không phải là việc vắng mặt trong thời gian ngắn một vài ngày mà thời gian vắng mặt tương đối dài, không thể xác định được. Trường hợp thứ hai, người tiếp nhận vắng mặt trong một thời gian dài vì lý do nào đó, không thông báo cho cơ quan hành chính địa phương và không thể xác định được địa chỉ mới của người đó. Để xác định tính xác thực của thông tin và chịu trách nhiệm về thông tin mà mình cung cấp, người cung cấp thông tin về hai trường hợp trên phải ký nhận vào biên bản không chuyển giao văn bản tố tụng được và nêu rõ lý do.

b.     Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức

Người tham gia tố tụng ngoài cá nhân có thể là cơ quan, tổ chức. Vì vậy, thủ tục thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng dân sự cho những đối tượng này đòi hỏi phải có những quy định riêng và phù hợp.

Khi thực hiện chuyển giao văn bản, người thực hiện phải giao cho người đại diện theo pháp luật (thông thường là Thủ trưởng hoặc Giám đốc công ty) hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó (thường là bộ phận văn thư). Nếu có người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng thì văn bản cần thông báo, cấp, tống đạt được chuyển giao cho người đó. Ngoài ra, người thực hiện có thể thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho người được cơ quan cử đại diện nhận văn bản tố tụng. Tuy vậy pháp luật không quy định cụ thể việc cử người đại diện này có thể thực hiện bằng hình thức lời nói hay buộc phải lập thành văn bản; hay khi chuyển giao văn bản họ có phải cung cấp Giấy ủy quyền hay không. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc xác định thẩm quyền của người tiếp nhận văn bản và tính hợp lệ của việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng dân sự. Để có cơ sở xác minh văn bản tố tụng đã được cấp, tống đạt hoặc thông báo đến đúng người, đúng thời điểm và hợp lệ, việc lập biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản và sự ký nhận của người tiếp nhận là rất cần thiết. Vì vậy pháp luật quy định ngày ký nhận là ngày được cấp, tống đạt hoặc thông báo.

2.3.2.      Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự qua dịch vụ bưu chính hoặc người thứ ba được ủy quyền thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo

Xét về bản chất thì đây là 2 phương thức tống đạt VBTT qua trung gian. Tuy nhiên phương thức tống đạt qua người thứ ba được uỷ quyền BLTTDS vẫn chưa có quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục mà chỉ quy định cấp, tống đạt, thông báo VBTT qua người thân thích, tổ trưởng tổ dân phố, UBND hoặc Công an cấp xã. Điều này đã gây không ít khó khăn cho người có trách nhiệm tống đạt cũng như ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người được cấp, tống đạt, thông báo VBTT.

Đa số các vụ việc dân sự được thụ lý giải quyết tại Toà án, cơ quan tiến hành tố tụng thường thực hiện tống đạt cho đương sự thông qua con đường bưu chính. Bởi đây là phương thức chuyển giao văn bản tố tụng tương đối nhanh chóng, giảm thiểu được chi phí tống đạt trong điều kiện Toà án không đủ nhân lực và hoạt động của cơ quan thừa phát lại vẫn còn đang được thí điểm tại một số địa phương ở nước ta hiện nay. Thực tế cho thấy trong những trường hợp đương sự vắng mặt tại Toà án, cơ quan tiến hành tố tụng rất khó khăn trong việc xác định văn bản tố tụng được chuyển giao cho đương sự thông qua bưu điện có phải là tống đạt hợp lệ hay không. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

Và có thể bạn sẽ cần xem:

Luận văn Lý luận Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

Thông thường Toà án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự qua dịch vụ bưu chính dưới ba hình thức, đó là: gửi thường, gửi đảm bảo và chuyển phát nhanh. Đối với hình thức gửi thường thì thời gian mà VBTT được chuyển đến người cần tống đạt khá lâu, thậm chí có trường hợp bị thất lạc do sơ suất của nhân viên bưu tá khi mà khối lượng bưu phẩm phải vận chuyển hiện nay là tương đối lớn, mức độ ưu tiên về mặt thời gian chưa thực sự được đảm bảo. Khác với gửi thường, chuyển phát nhanh là hình thức được lựa chọn nhiều hơn, người nhận có thể nhận được bưu phẩm dễ dàng và nhanh chóng trong khoảng thời gian từ 1-2 ngày tuỳ theo phạm vi địa lý từng khu vực. Tuy nhiên, cả 2 hình thức gửi thường và chuyển phát nhanh đều chỉ được xác nhận bằng Vận đơn gửi. Các thông tin trên Vận đơn này chỉ mang tính chất xác nhận sự việc người gửi đã thực hiện việc gửi thư hoặc bưu phẩm tới người tiếp nhận tại bưu cục gửi mà không đề cập đến việc người nhận có thực sự nhận được chúng hay không. Điều này cũng gây ra không ít khó khăn, vướng mắc trong việc xác định việc gửi VBTTDS tại thời điểm nào thì được coi là tống đạt hợp lệ. Bên cạnh đó cũng phải kể đến việc sử dụng các mẫu văn bản dùng trong bưu chính cần phải được áp dụng thống nhất. Tại các bưu cục khác nhau, đôi khi việc sử dụng các mẫu vận đơn, mẫu gửi mới thay thế cho các mẫu văn bản cũ lại không được cập nhật thường xuyên hoặc đã không còn được sử dụng nữa. Bởi các lý do trên mà pháp luật tố tụng dân sự quy định việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS thông qua dịch vụ bưu chính phải được gửi bằng thư bảo đảm và có xác nhận của người nhận văn bản. Văn bản có xác nhận phải được chuyển lại cho Tòa án. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ xác nhận đã nhận được văn bản tố tụng do tổ chức dịch vụ bưu chính chuyển đến (Điều 175 BLTTDS năm 2015). Khi thực hiện gửi đảm bảo, ngoài việc chuyển bưu phẩm đến đúng địa chỉ của người được tống đạt do người gửi cung cấp, nhân viên bưu điện còn phải yêu cầu người nhận ký tên xác nhận về việc đã nhận bưu phẩm thông qua Phiếu báo phát. Nội dung Phiếu báo phát có ghi rõ thông tin người gửi, người nhận bưu phẩm và có dấu xác nhận của bưu cục phát.

Nhìn chung, việc lựa chọn hình thức chuyển giao văn bản nào trong 3 hình thức này tuỳ thuộc vào tính chất của từng vụ việc dân sự cụ thể. Thời điểm đương sự được tống đạt hợp lệ căn cứ vào dấu xác nhận của bưu điện gửi VBTT. Đây cũng là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định thời hạn tố tụng theo quy định của pháp luật.

2.3.3.      Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự bằng phương tiện điện tử

Để phù hợp với điều kiện, tình hình mới, BLTTDS năm 2015 đã thừa nhận phương thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng hoàn toàn mới, đó là cấp, tống đạt, thông báo VBTT bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Theo khoản 6 Điều 4 Luật giao dịch điện tử năm 2005 thì:

“Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử”; “Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự”.

Ngày 30/12/2016, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP (có hiệu lực từ ngày 15/02/2017) hướng dẫn thi hành một số quy định về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo VBTT bằng phương tiện điện tử. Theo đó, Pháp luật TTDS cho phép người khởi kiện gửi đơn khởi kiện đến Toà án thông qua gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Toà án theo một trong các hình thức sau: Gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa án; Chỉ nhận thông điệp dữ liệu điện tử do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo.

Về điều kiện thực hiện giao dịch điện tử, người khởi kiện, người tham gia tố tụng (các cá nhân, cơ quan, tổ chức) lựa chọn gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa án phải có các điều kiện sau:

  • “Có địa chỉ thư điện tử để gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử đến và đi từ Cổng thông tin điện tử của Tòa án;
  • Có chữ ký điện tử được chứng thực bằng chứng thư điện tử đang còn hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, công nhận…”. (khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP) ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

Đương sự được đăng ký một số điện thoại di động để nhận mã xác thực giao dịch điện tử qua tin nhắn và được đăng ký một địa chỉ thư điện tử chính thức để nhận tất cả văn bản tố tụng trong quá trình thực hiện giao dịch điện tử với tòa.

Nội dung đơn khởi kiện có ghi rõ fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Ngày khởi kiện là ngày gửi đơn thành công. Tòa gửi thông báo nhận đơn khởi kiện điện tử đến đương sự qua cổng thông tin điện tử của tòa chậm nhất 15 phút sau khi nhận được đơn khởi kiện điện tử. Khi thực hiện tống đạt theo hình thức này, Tòa án phải lập biên bản ghi nhận sự đồng ý của đương sự và địa chỉ thư điện tử để tống đạt. Về phía Tòa án cũng phải có một địa chỉ email để sử dụng chung. Thư ký chụp hình các văn bản tố tụng đã được ký, đóng dấu rồi gửi cho đương sự qua email. Khi nhận được các văn bản tống đạt, đương sự phải gửi thư xác nhận đã nhận được qua email cho người gửi.

Có thể nói phương thức này đem lại khá nhiều sự tiện lợi, giúp cho việc tống đạt, thông báo được thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng, ít chi phí. Tuy nhiên, để việc áp dụng trở nên phổ biến thì cũng cần có một khoảng thời gian nhất định bởi người dân không phải ai cũng quen giao dịch trên mạng, nhất là ở những vùng có điều kiện, kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Chưa kể, các Tòa án cũng cần có thời gian đầu tư xây dựng cổng thông tin điện tử của cơ quan mình cùng nền tảng công nghệ cần thiết giúp cho việc thực hiện giao dịch điện tử với đương sự. Bên cạnh đó, muốn phát huy được hiệu quả trên thực tế còn đòi hỏi nhà nước phải có một hệ thống pháp luật với những quy định đủ chặt chẽ, khoa học và rõ ràng.

2.3.4.     Niêm yết công khai

Hiểu theo cách khái quát, niêm yết công khai là việc dán (treo) văn bản tố tụng cần được truyền tải thông tin lên một vị trí nhất định để thông báo cho công chúng và cho người tiếp nhận biết. Về mặt lý luận, có thể nhận thấy việc niêm yết công khai VBTT mang lại hiệu quả thấp hơn so với thủ tục tống đạt trực tiếp, do đó pháp luật quy định trong những trường hợp không thể tống đạt trực tiếp được thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng thủ tục niêm yết công khai. Khi thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo bằng hình thức này, Tòa án có thể tự mình trực tiếp hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người tiếp nhận thực hiện. Theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức hoạt động của Thừa phát lại thì hiện nay việc chuyển văn bản tố tụng đến người có nghĩa vụ tiếp nhận có thể được ủy quyền cho tổ chức Thừa phát lại thực hiện.

Theo quy định của BLTTDS, có 3 địa điểm thực hiện việc niêm yết công khai văn bản tố tụng là Trụ sở TAND đang thụ lý giải quyết vụ án, trụ sở UBND cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được tống đạt và nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được tống đạt. Việc niêm yết văn bản tố tụng tại trụ sở Tòa án là cần thiết bởi đây là nơi mà hàng ngày người tham gia tố tụng, người có liên quan trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự thường đến liên hệ làm việc. Hơn nữa, thông tin về văn bản được niêm yết tại trụ sở thể hiện sự minh bạch, công khai với công chúng về hoạt động tố tụng nói chung và văn bản tố tụng đó nói riêng. Nơi niêm yết công khai thứ hai là tại trụ sở UBND cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người tiếp nhận. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

Điều này rất dễ hiểu bởi đây là cơ quan quản lý hành chính nhà nước tại địa phương, là nơi gần dân nhất, hàng ngày giải quyết các công việc của công dân trên địa bàn cơ sở, do đó việc niêm yết tại các cơ quan này sẽ phần nào đảm bảo cơ hội cho người cần được tống đạt tiếp cận với nguồn thông tin. Văn bản niêm yết còn cần được niêm yết tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người tiếp nhận và được xác định theo Luật cư trú và văn bản hướng dẫn thi hành. Việc niêm yết tại nơi cư trú, nơi cư trú cuối cùng cũng là cơ hội để họ được biết về văn bản tố tụng. Như vậy, việc niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú, nơi cư trú cuối cùng và tại nơi cư trú, nơi cư trú cuối cùng của người tiếp nhận về cơ bản là trùng nhau, cùng trên địa bàn cấp xã.

Về thủ tục niêm yết công khai, điều luật quy định khi thực hiện niêm yết công khai thì người thực hiện niêm yết phải lập biên bản về việc niêm yết đó. Trong biên bản phải ghi rõ thời gian, ngày, tháng, năm niêm yết; số, ngày, tháng, năm, tên của văn bản thông báo, có chữ ký của người chứng kiến. Sở dĩ pháp luật đòi hỏi người thực hiện niêm yết phải thực hiện thủ tục này là để có cơ sở khẳng định việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng đã được thực hiện chính xác và vì biên bản sẽ được lưu vào hồ sơ tố tụng. Đối với việc niêm yết tại trụ sở Tòa án, thông thường Tòa án lập biên bản niêm yết riêng, biên bản này do Thư ký tòa án lập và được Thẩm phán, Cán bộ văn phòng ký tên, đóng dấu xác nhận. Thời gian niêm yết công khai văn bản tố tụng là 15 ngày kể từ ngày được niêm yết. Thời gian niêm yết được đặt ra như trên nhằm đảm bảo cơ hội cho người được tống đạt có điều kiện tiếp nhận thông tin một cách chính xác, kịp thời. Về mặt pháp lý, ngày cuối cùng của thời hạn niêm yết là ngày xác định việc người được tống đạt đã tiếp nhận được những thông tin cần thiết và tạo cơ sở cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách hợp pháp.

2.3.5.  Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng

Việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi pháp luật có quy định hoặc có căn cứ xác định là việc niêm yết công khai không đảm bảo cho người được tống đạt nhận được thông tin về văn bản cần được tống đạt. Như vậy khi các phương thức tống đạt trực tiếp, tống đạt thông qua người thứ ba hoặc thủ tục niêm yết công khai không đạt hiệu quả, pháp luật cho phép cơ quan có thẩm quyền áp dụng thủ tục truyền đạt thông tin văn bản tố tụng qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ đó thông tin có thể đến với người cần được tống đạt văn bản tố tụng. Thông tin đại chúng theo trường hợp này được hiểu là một quá trình truyền đạt thông tin văn bản tố tụng thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đến các nhóm cộng đồng trong xã hội, trong đó có đối tượng cần tiếp nhận thông tin. Phương thức thông báo này xác định phạm vi địa lý để phổ biển thông tin lớn hơn so với các phương thức khác, cũng như mở rộng hơn về số lượng người tiếp cận thông tin, với mong muốn người cần được tống đạt sẽ có điều kiện tiếp cận thông tin một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Bởi nếu như thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng trực tiếp thì chỉ đối tượng cần tiếp nhận hoặc người đại diện của họ có thể tiếp cận được thì đến niêm yết công khai phạm vi được mở rộng ra nơi cư trú của người đó, cùng với đó là số lượng người biết về thông tin trong văn bản tố tụng cũng tăng lên. Trên thực tế áp dụng thì phương thức này thường đem lại kết quả thấp và không xác định được rõ ràng. Ngoài những lý do trên, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng cũng được sử dụng nếu có yêu cầu của đương sự khác, lệ phí liên quan sẽ do người yêu cầu chịu.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 180 BLTTDS năm 2015 thì việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, trên một trong các báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của Trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp. Có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế của nước ta hiện nay, ở các đô thị lớn, mạng lưới truyền thông, internet phát triển mạnh mẽ giúp cho việc cập nhật thông tin được thực hiện nhanh chóng. Tuy nhiên đối với các khu vực vùng xâu vùng xa, vùng nông thôn kinh tế khó khăn, người dân không có những điều kiện thuận lợi để tiếp cận các phương tiện thông tin hiện đại. Vì vậy, pháp luật quy định việc đăng tải thông tin trên các phương tiện truyền thông chính thống của quốc gia, gần gũi với người dân là báo hàng ngày của Trung ương, Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của Trung ương nhằm đảm bảo cho việc mở rộng phạm vi lan truyền và số lượng người tiếp nhận thông tin, từ đó bảo đảm cơ hội cao hơn để thông tin đến được với người cần được tống đạt. Hiện nay, chưa có quy định nào của pháp luật, từ Luật Báo chí năm 2016 đến các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này đưa ra tiêu chí xác định thế nào là báo trung ương hay báo địa phương. Trên thực tế, việc xác định báo trung ương hay báo địa phương thường căn cứ dựa trên cơ quan chủ quản báo chí, nếu cơ quan chủ quản của tờ báo là cấp trung ương thì tờ báo họ quản lý là cấp trung ương và tương tự như vậy đối với báo địa phương. Căn cứ vào đơn vị chủ quản của báo chí, Bộ thông tin và truyền thông đã phân loại một số cơ quan báo chí và công bố công khai trên website của Bộ, theo đó, một số cơ quan báo chí trung ương như: đối với đơn vị chủ quản là Ban chấp hành trung ương có Báo Nhân dân, tạp chí Cộng sản; đơn vị chủ quản là Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có Báo Tiền phong, Báo Thanh niên; đơn vị chủ quản là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có Báo Lao động… Ngoài tiêu chí cơ quan chủ quản của tờ báo là cấp trung ương thì việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng còn phải đảm bảo tiêu chí rằng đó là tờ báo được phát hành hàng ngày. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình trung ương là các đài phát thanh và truyền hình trực thuộc trung ương, có phạm vi phát sóng trên toàn quốc. Đài truyền hình Việt Nam là đài truyền hình quốc gia, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng thông tin, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và cung ứng các dịch vụ công. Đài Tiếng nói Việt Nam là đài phát thanh quốc gia, là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng thông tin, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân và công chúng. Ngoài ra, việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Quy định này nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin thường xuyên trong lĩnh vực tư pháp nói chung và hoạt động của ngành Toà án nói riêng. Mặt khác, qua việc đăng tải thông báo trên kênh thông tin này, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan có thể nhanh chóng, dễ dàng tiếp cận thông tin về vụ việc đang được toà án thụ lý giải quyết.

2.3.6.   Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự trong trường hợp đương sự ở nước ngoài

Ngày này, với việc hội nhập quốc tế mạnh mẽ và rộng khắp thế giới, các giao lưu dân sự, thương mại giữa các quốc gia ngày càng phổ biến dẫn đến các tranh chấp, yêu cầu có yếu tố nước ngoài phát sinh mà Toà án cần phải thụ lý giải quyết ngày một nhiều. Các tranh chấp, yêu cầu này được gọi là vụ việc có yếu tố nước ngoài. Đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, nếu một trong các bên đương sự ở nước ngoài thì hoạt động cấp, thông báo, tống đạt VBTTDS phải được thực hiện thông qua một thủ tục riêng gọi là tương trợ tư pháp. Trong Giáo trình Luật TTDS của Trường Đại học Luật Hà Nội có nêu: “sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các Toà án, cơ quan có thẩm quyền của các nước được gọi là tương trợ tư pháp”. Từ đó, có thể hiểu rằng tương trợ tư pháp là việc Toà án của một nước nhờ Toà án của nước ngoài thực hiện giúp hành vi tố tụng nhất định, cần thiết để đảm bảo giải quyết được các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.

Xem xét quy định tại Điều 13 Luật tương trợ tư pháp năm 2007 thì Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp trong các trường hợp sau đây: Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho người đang ở nước được yêu cầu; Triệu tập người làm chứng, người giám định ở nước được yêu cầu; Thu thập, cung cấp chứng cứ ở nước được yêu cầu để giải quyết vụ việc dân sự tại Việt Nam và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Như vậy, hoạt động cấp, thông báo, tống đạt các VBTTDS cho đương sự ở nước ngoài là một trong những hoạt động tương trợ tư pháp. Hoạt động này được thực hiện dựa trên những nguyên tắc chung của tương trợ tư pháp đó là: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa ký kết điều ước quốc tế thì có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong hoạt động ủy thác tư pháp nhưng không được trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế (Điều 4 Luật tương trợ tư pháp năm 2007).

Ngoài những quy định về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định tại chương XXXVIII của BLTTDS năm 2015, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng đã ban hành một số văn bản hướng dẫn thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp nói chung và hoạt động tống đạt, thông báo VBTTDS cho đương sự ở nước ngoài nói riêng. Đặc biệt, khi Công ước La Hay về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (gọi tắt là Công ước Tống đạt) được thông qua ngày 15/11/1965 tại phiên họp lần thứ 10 của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 01/10/2016. Là thành viên của Công ước Tống đạt, Việt Nam sẽ có quyền yêu cầu các quốc gia thành viên khác thực hiện các yêu cầu tống đạt giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp của mình theo quy định tại Công ước. Đồng thời, Việt Nam cũng có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu tống đạt giấy tờ của các quốc gia thành viên khác phù hợp với phạm vi, yêu cầu và quy trình thủ tục được quy định tại Công ước này. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tống đạt văn bản tố tụng theo phương thức quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước Tống đạt và phương thức ngoại giao, ngày 19/10/2016, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC “Quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự”, có hiệu lực từ ngày 06/12/2016. Đây là văn bản thay thế cho Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp” trước đó. Thông tư liên tịch số 12 đã nội luật hoá Công ước Tống đạt, hướng dẫn chi tiết về cách thức, trình tự thực hiện hồ sơ uỷ thác tư pháp về dân sự phù hợp với quy định của BLTTDS năm 2015 và quy định về cơ chế thu, nộp chi phí uỷ thác tư pháp về dân sự (tại Thông tư số 203/2016/TT-BTC ngày 09/11/2016). Ngày 21/2/2017, TANDTC ban hành Công văn số 33/TANDTC-HTQT quy định về việc tống đạt VBTT cho đương sự ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nhằm hướng dẫn việc thực hiện đúng và thống nhất các nội dung của Thông tư liên tịch số 12/2016/TLT- BTP-BNG-TANDTC. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS trong trường hợp đương sự ở nước ngoài được thực hiện bằng các phương thức sau:

Thứ nhất, theo phương thức được quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các thành viên tham gia điều ước phải có nghĩa vụ tuân thủ các quy định chung đã được ký kết.

Thứ hai, thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền của mỗi quốc gia. Bằng hình thức này, các yêu cầu về uỷ thác tư pháp sẽ được chuyển cho cơ quan trung ương của mỗi quốc gia, cơ quan này sẽ nhận và chuyển tiếp tới các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.

Thứ ba, bằng con đường ngoại giao, theo đó, các yêu cầu về uỷ thác tư pháp được chuyển giao cho cơ quan ngoại giao của mỗi quốc gia, cơ quan này sẽ nhận và chuyển tiếp tới cơ quan có thẩm quyền.

Thứ tư, thông qua văn phòng đại diện, chi nhánh của cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.

Thứ năm, theo đường dịch vụ bưu chính, VBTTDS có thể được gửi đến địa chỉ của đương sự đang cư trú ở nước ngoài nhưng phải được pháp luật nước đó cho phép. Ngoài ra, phương thức tống đạt này được sử dụng để tống đạt cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài thông qua cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài (cơ quan lãnh sự, đại sứ quán); cho người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền tại Việt Nam của đương sự ở nước ngoài. Các quy định về hồ sơ và chi phí tống đạt VBTT theo đường bưu chính được pháp luật quy định cụ thể tại mục II của Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 21/02/2017.

Thứ sáu, bằng hình thức niêm yết công khai trong trường hợp 5 phương thức tống đạt nêu trên không có kết quả. Khi đó, Toà án tiến hành niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, Toà án đang giải quyết vụ việc hoặc tại nơi cư trú cuối cùng của đương sự tại Việt Nam trong thời hạn 01 tháng và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Toà án (nếu có), cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài. Trường hợp cần thiết, Toà án có thể thông báo qua kênh dành cho người nước ngoài của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của Trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp. Hiện nay, ở nước ta, Bộ tư pháp là cơ quan có thẩm quyền nhận các văn bản uỷ thác và tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp của các Toà án địa phương, sau đó các văn bản, tài liệu này sẽ được chuyển cho Bộ Ngoại giao để Bộ Ngoại giao chuyển cho Toà án nước ngoài và ngược lại. Thực tế cho thấy rằng việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS cho đương sự ở nước ngoài phụ thuộc vào sự hợp tác của các cơ quan tư pháp nước ngoài. Trong trường hợp nếu họ không thực hiện giúp việc tống đạt thì ta khó có thể biết được và cũng không có biện pháp nào buộc họ phải thực hiện việc uỷ thác.

Tóm lại, việc cấp, thông báo, tống đạt VBTTDS cho đương sự ở nước ngoài hiện nay được thực hiện trên cơ sở tuân theo quy định trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa nước đó với Việt Nam. Trong trường hợp giữa nước đó với Việt Nam không có hiệp định tương trợ tư pháp thì sẽ tuân theo nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái với pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế. ( Luận văn Quy định Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng )

2.4.    Thông báo kết quả việc cấp, tống đạt, hoặc thông báo văn bản tố tụng

Tại Điều 181 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trong trường hợp người thực hiện việc thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng không phải là Tòa án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng hoặc cán bộ của các cơ quan đó thì người thực hiện phải thông báo ngay kết quả việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho Tòa án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng đó”. Trong quá trình cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng vì một số lý do nào đó mà không thể thực hiện được. Để đảm bảo văn bản tố tụng đã được chuyển đến đúng người, đúng thời hạn luật định cũng như giúp cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng xử lý các trường hợp làm chậm trễ việc chuyển giao, người thực hiện phải thông báo ngay kết quả làm việc đến thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc người trực tiếp giao nhiệm vụ nơi mình công tác. Nếu người thực hiện không phải là cán bộ làm việc tại cơ quan tiến hành tố tụng thì ngoài trách nhiệm nêu trên, người này còn có trách nhiệm thông báo ngay kết quả chuyển giao văn bản tố tụng cho cơ quan đã ban hành văn bản đó. Vì ý nghĩa quan trọng của hoạt động thông báo, cấp, tống đạt văn bản tố tụng, đồng thời nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người thực hiện, nếu không vì lý do khách quan mà người chuyển giao vi phạm nghĩa vụ thông báo kết quả cấp, tống đặt hoặc thông báo văn bản tố tụng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Tuy nhiên căn cứ để xử lý trường hợp này lại gặp vướng mắc, khó khăn vì pháp luật quy định việc thông báo kết quả phải được thực hiện ngay nhưng lại không quy định sau bao lâu từ thời điểm “ngay” đó được coi là vi phạm trách nhiệm và được tính là cơ sở áp dụng các biện pháp xử phạt đối với người có nghĩa vụ thực hiện.

Kết luận chương 2 Luận văn Quy định Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

Có thể thấy rằng, VBTTDS rất đa dạng, mỗi văn bản được ban hành chứa đựng những nội dung, mục đích khác nhau và được áp dụng đối với từng đối tượng cụ thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, tuỳ từng trường hợp mà các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn các phương thức thông báo, cấp, tống đạt VBTT sao cho phù hợp để đạt được hiệu quả tốt nhất. Việc BLTTDS năm 2015 quy định thêm một số phương pháp mới về cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS đã giúp cho hoạt động tố tụng được thực hiện một cách linh hoạt và khoa học hơn. Cùng với đó, sự gia nhập Công ước Tống đạt đã mở ra cơ hội mới cho Việt Nam trong quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế. Nó tạo cơ sở pháp lý đa phương để Việt Nam đề nghị nước ngoài thực hiện các yêu cầu tống đạt giấy tờ nhằm giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng cần có nhận thức rõ rằng là thành viên của Công ước Tống đạt đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ tiếp nhận các yêu cầu tống đạt từ các quốc gia thành viên khác. Vì vậy, cần có sự đầu tư, tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, cán bộ) cho công tác tương trợ tư pháp và đẩy mạnh sự phối hợp giữa Cơ quan Trung ương với các cơ quan địa phương để đảm bảo thực hiện tốt Công ước.

Xem tiếp phần sau tại:

Luận văn Giải pháp Cấp, Tống đại, thông báo văn bản tố tụng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Luận văn Quy định Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993