Luận văn Giải pháp Cấp, Tống đại, thông báo văn bản tố tụng

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn Giải pháp Cấp, Tống đại, thông báo văn bản tố tụng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn Quy định Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN BẢN TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

3.1.   Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

3.1.1.    Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Có thể thấy rằng từ khi BLTTDS năm 2015 được ban hành, với các quy định tương đối cụ thể và rõ ràng về hoạt động tống đạt VBTTDS, việc thực hiện các công việc liên quan đến giao các VBTTDS diễn ra một cách khoa học, chặt chẽ và quy củ hơn, giảm thiểu những sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Thực tế ngành Toà án cho thấy trong những năm gần đây, các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động do Toà án nhân dân các cấp giải quyết ngày càng gia tăng về số lượng, điều này đồng nghĩa với việc số vụ việc Toà án cần thực hiện các hoạt động tống đạt văn bản tố tụng ngày càng tăng. Việc BLTTDS dành riêng một chương để quy định về thủ tục tống đạt văn bản tố tụng đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc dân sự, tạo nên một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Mặc dù số lượng vụ việc dân sự cần phải giải quyết không ngừng gia tăng qua các năm, nhưng tỉ lệ vụ việc được giải quyết của Toà án năm sau luôn cao hơn năm trước.

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án nhân dân các cấp, những trường hợp bản án, quyết định dân sự bị huỷ, sửa chiếm tỷ lệ không quá cao. Theo thống kê của ngành Toà án, trong 6 tháng đầu năm 2017, TAND hai cấp thành phố Hà Nội đã thụ lý 18.010 vụ án, giải quyết 11.947 vụ, đạt tỉ lệ 66,3%. Số vụ án bị huỷ, sửa giảm so với cùng kỳ năm 2016. Về chất lượng xét xử được nâng lên, số án bị huỷ 57 vụ (giảm 27 vụ so với 6 tháng đầu năm 2016), án sửa 280 vụ (giảm 62 vụ so với 6 tháng đầu năm 2016) [15]. Nhìn chung, hoạt động tống đạt văn bản tố tụng được các cơ quan chức năng thực hiện một cách khách quan, vô tư, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nhiều vướng mắc trong hoạt động tống đạt trước đây chưa được hướng dẫn đầy đủ, nay đã được Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và phát huy hiệu quả áp dụng trên thực tế. Bên cạnh đó, những quy định của BLTTDS đã phần nào khẳng định vị thế của cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho các cá nhân, tổ chức này hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong quá trình công tác, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng đã không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công chức; chú ý đến sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện hoạt động tống đạt văn bản; không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan của cấp uỷ, chính quyền các cấp, các cơ quan ban ngành liên quan trong hoạt động tố tụng. Thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự chứng minh những điều này đã tạo tiền đề quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tống đạt văn bản tố tụng.( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

Cho đến nay vẫn chưa có thống kê chính thức về số lượng bản án, quyết định dân sự, kinh doanh thương mại, lao động của Toà án bị huỷ do vi phạm quy định pháp luật về tống đạt văn bản tố tụng, tuy nhiên có thể nhận thấy trên thực tiễn có rất nhiều bản án, quyết định bị toà án cấp trên huỷ vì lý do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trong đó các vi phạm về tống đạt văn bản tố tụng là tương đối phổ biến. Thực trạng này dẫn đến yêu cầu được đặt ra là cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động tống đạt văn bản để đảm bảo thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời cũng đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự khi tham gia tố tụng.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

3.1.2.   Những hạn chế, tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

  • Đối với thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng trên phương tiện thông tin đại chúng

a – Việc áp dụng thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng còn thiếu thống nhất

Theo quy định pháp luật có ba trường hợp phải thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Một là, khi pháp luật có quy định. Hai là, có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho người được cấp, tống đạt, thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt, thông báo. Các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án có sử dụng phương thức thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đó là: yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố một người mất tích và yêu cầu tuyên bố một người là đã chết. Tuy nhiên, căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo thì lại không có hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất giữa các Toà án.

Ví dụ: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng VPBank (gọi tắt là Ngân hàng VPBank) khởi kiện ông Lê Văn H ra Toà án nhân dân huyện Phúc Thọ về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Quá trình xác minh, thông tin, địa chỉ của ông H theo địa chỉ mà Ngân hàng cung cấp, công an xã Vân Hà xác minh như sau: “Ông Lê Văn H và gia đình còn đăng ký hộ khẩu tại xã Vân Hà, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, ông H hiện đã đi đâu không rõ.” Trong trường hợp này, có ý kiến cho rằng ông Lê Văn H còn đăng ký hộ khẩu tại địa phương và gia đình ông hiện vẫn đang sinh sống tại địa chỉ này. Do đó chỉ cần cấp, tống đạt, thông báo cho người thân của ông H để họ thông báo lại với ông và thực hiện thủ tục niêm yết công khai thì đã “đảm bảo” mà không cần thiết thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.

Bên cạnh đó, một quan điểm khác lại cho rằng do ông H đã đi khỏi địa phương, không rõ thời điểm trở về, không rõ địa chỉ nơi cư trú mới nên việc niêm yết công khai tại địa phương sẽ không đảm bảo việc ông H biết được việc Ngân hàng VPBank khởi kiện đối với ông. Vì vậy, trường hợp này cần phải thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Đối với hai quan điểm nêu trên, tác giả nghiêng về quan điểm thứ nhất. Theo đó, chỉ cần thực hiện thủ tục niêm yết công khai mà không cần phải thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Bởi lẽ người thân của ông H còn cư trú tại địa chỉ trên và Toà án đã thông báo về việc thụ lý vụ án cho gia đình ông H được biết. Đồng thời, ông H đi khỏi địa phương mà không thực hiện thủ tục khai báo tạm trú, tạm vắng theo quy định của pháp luật. Do đó, có cơ sở xác định ông H cố tình trốn tránh việc khởi kiện nên chỉ cần thực hiện thủ tục niêm yết công khai.

Trên thực tế, nhiều trường hợp đương sự bỏ trốn khỏi địa phương, cố tình trốn tránh việc tống đạt mặc dù vẫn biết việc khởi kiện, gia đình người thân không hợp tác cung cấp thông tin, địa chỉ của đương sự dẫn đến việc giải quyết vụ án kéo dài, gây khó khăn cho đương sự khác mà chủ yếu là người khởi kiện. Đa số các vụ án phải tiến hành thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng thì trong thời gian 04 tháng kể từ ngày thông báo, Toà án mới tiếp tục giải quyết vụ việc. Mặt khác, chi phí để thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng khá cao mà thông thường lệ phí này do đương sự có yêu cầu thông báo chịu.Vì vậy, việc đương sự (chủ yếu là người bị kiện) không phải chịu chi phí thông báo sẽ dẫn đến việc cố tình trốn tránh việc khởi kiện, cản trở tố tụng tư pháp. Các đương sự cùng tham gia trong vụ án cũng có thể yêu cầu thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc sẽ xem xét có chấp nhận thực hiện thủ tục này hay không. Nếu được chấp nhận thì đương sự yêu cầu phải chịu lệ phí thông báo.( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

b – Quy định về việc thực hiện thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chưa cụ thể

Theo quy định tại khoản 3 Điều 180 BLTTDS 2015 thì việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên Cổng Thông tin điện tử của Toà án. Thực tế cho thấy, thông báo của một số Toà án tỉnh/thành phố có Cổng thông tin điện tử thực hiện việc đăng thông báo trên Cổng thông tin của Toà án cấp tỉnh đối với các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện và tỉnh nơi đó. Tuy nhiên, một số Toà án địa phương chưa có Cổng thông tin điện tử nên việc thông báo của Toà án lại được đăng trên Cổng thông tin của TANDTC dẫn đến việc tra cứu thông báo không thống nhất, gây khó khăn, không mang lại hiệu quả, đặc biệt là khi thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Toà án địa phương nhưng đương sự không còn có mặt tại địa phương. Vì vậy cần có quy định rõ đối với vấn đề này để đem lại hiệu quả đối với việc thực hiện mục đích của quy định trên.

c – Quy định về nghĩa vụ chịu lệ phí thông báo còn nhiều bất cập

Theo quy định tại điều 180 BLTTDS năm 2015 thì đương sự phải chịu lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nếu đương sự có yêu cầu. Đồng thời đối với trường hợp áp dụng thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng mà pháp luật có quy định thì lệ phí thực hiện theo quy định cũng do đương sự phải chịu. Tuy nhiên, đối với trường hợp mà pháp luật không có quy định và đương sự không có yêu cầu mà có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho người được cấp, tống đạt, thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt thì lại không có quy định ai là người phải chịu lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Trường hợp này Toà án có phải chịu lệ phí hay không và nếu chịu thì lấy tiền từ đâu, quyết toán như thế nào hay do đương sự phải chịu thì chưa có hướng dẫn cụ thể. Bất cập này dẫn đến các hậu quả pháp lý sau: Thứ nhất, trường hợp đương sự đi khỏi địa phương và có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho người được cấp, tống đạt, thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt nhưng các Toà án thường chỉ dừng lại ở thủ tục niêm yết công khai hoặc thực hiện khi đương sự có yêu cầu. Điều này khiến việc thực hiện thủ tục cấp, tống đạt, thông báo cho đương sự không được đảm bảo. Thứ hai, một số toà án ra thông báo yêu cầu đương sự phải chịu lệ phí thông báo để thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng gây bất lợi cho đương sự khi mà lệ phí thực hiện thủ tục thông báo không nhỏ gây nên tâm lý ngại đi kiện, vì không biết có giải quyết được không nhưng lại bỏ ra một khoản lệ phí khá cao để giải quyết và tạo điều kiện cho đương sự trốn tránh việc khởi kiện. Tuy nhiên cũng có một số toà án lại chịu lệ phí thực hiện thông báo gây nên bất nhất trong quá trình tố tụng.

  • Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng qua dịch vụ bưu chính

BLTTDS quy định việc cấp, tống đạt, thông báo VBTTDS qua dịch vụ bưu chính được coi là hợp lệ khi VBTT được gửi bằng thư đảm báo và phải có chữ ký của người nhận VB mà không quy định rõ trình tự, thủ tục tiến hành khiến cho các Tòa án gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng. Các văn bản thể hiện việc chuyển giao giữa Tòa án và bưu điện không có các mục ghi thông tin hay phần nội dung để Tòa án có thể ghi số hiệu, thời gian ban hành văn bản, thời gian triệu tập, mời đương sự, người tham gia tố tụng khác, cũng không có mục nêu rõ trách nhiệm của nhân viên bưu điện phải giao tận tay cho người cần được tống đạt. Đa số nhân viên bưu điện do am hiểu pháp luật còn hạn chế nên không tuân thủ các quy định về thủ tục tống đạt. Hơn nữa, quá trình chuyển giao văn bản phải thực hiện qua nhiều khâu trung gian khiến cho VBTT thường được chuyển qua nhiều người nên thực tế người giao tận tay cho người được tống đạt văn bản tố tụng không phải là người nhận văn bản từ cán bộ Tòa án ban đầu. Khi chuyển giao văn bản tố tụng, nhân viên bưu điện thường chỉ chú ý đến chuyển giao đến đúng địa chỉ ghi trên bì thư mà không quan tâm đến việc ai là người ký nhận cũng như các điều kiện khác để đảm bảo cho việc tống đạt được xem là hợp lệ. Đối với đương sự ở các vùng nông thôn không có số nhà, tên đường cụ thể mà chỉ có địa chỉ là thôn, xóm, huyện, xã…; nhân viên bưu điện có khi chuyển giao bưu phẩm trực tiếp cho người nhận, nhưng cũng có khi chỉ giao cho tổ trưởng tổ dân phố khu vực đó mà không báo lại cho Toà án biết. Hoặc có nhiều trường hợp bưu phẩm được người khác nhận thay nhưng nhân viên bưu điện không ghi rõ người nhận là ai, quan hệ như thế nào với người được tống đạt. Do đó, rất khó để xác định việc người được tống đạt đã nhận được văn bản tố tụng nếu đến thời gian được triệu tập, họ không có mặt tại Toà án.

  • Về hoạt động niêm yết công khai văn bản tố tụng dân sự

Một số Toà án khi giải quyết các vụ việc dân sự đã áp dụng không đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục niêm yết văn bản tố tụng, dẫn đến bản án, quyết định bị Toà án cấp trên huỷ vì vi phạm thủ tục tố tụng. Có thể kể đến hai bản án sau đây:

Bản án thứ nhất: Ngày 28/3/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã mở phiên toà phúc thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á và bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn MTV NQP. Tài sản thế chấp bảo đảm cho khoản tiền vay theo hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết gồm: 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Đinh Văn D là chủ sở hữu. Ngày 08/8/2017, 08 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là bà Nguyễn Thị Mỹ H, bà Nguyễn Thị Hoàng Anh K, ông Nguyễn Xuân Th, bà Nguyễn Thị Mỹ L, ông Nguyễn Quốc Q, bà Nguyễn Thị Ch, ông Nguyễn Quốc K và bà Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 35/2017/KDTM-ST ngày 18/07/2017 của TAND thành phố Biên Hòa [58].( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

Nhận xét về thủ tục tố tụng, Toà án cấp phúc thẩm cho rằng Toà án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng theo Điều 179 BLTTDS năm 2015 khi thực hiện việc triệu tập bị đơn thông qua thủ tục niêm yết không đúng theo quy định của pháp luật. Cụ thể, tại biên bản niêm yết ngày 21/10/2015, Tòa án cấp sơ thẩm niêm yết Giấy triệu tập làm việc số 75/GTT ngày 15/10/2015 cho công ty NQP tại trụ sở công ty NQP (địa chỉ 138H, tổ 4, ấp 2, xã An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) và trụ sở Ủy ban nhân dân xã An Hòa, thành phố Biên Hòa nhưng không niêm yết tại trụ sở Tòa án; Tại biên bản niêm yết ngày 21/10/2015, Tòa án cấp sơ thẩm niêm yết giấy triệu tập làm việc số 72/GTT ngày 15/10/2015 đối với ông Đinh Văn D và bà Phạm Thị Thu Th tại nơi cư trú (địa chỉ 138H, tổ 4, ấp 2, xã An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) và trụ sở Ủy ban nhân dân xã An Hòa, thành phố Biên Hòa nhưng không niêm yết tại trụ sở Tòa án. Ngày niêm yết là 21/10/2015, triệu tập làm việc vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 02/11/2015 là không đủ 15 ngày, kể từ ngày niêm yết. Việc Thẩm phán tính toán thời hạn niêm yết VBTT là không chính xác. Kết quả, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Tp. Biên Hòa giải quyết lại theo thủ tục chung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Qua vụ án trên có thể thấy rằng niêm yết công khai là một hoạt động tố tụng quan trọng. Từ việc không nắm chắc các quy định của pháp luật đã dẫn đến việc áp dụng sai trình tự, thủ tục tố tụng. Các trường hợp vi phạm thường gặp đó là niêm yết VBTT không đúng địa điểm, không đủ thời gian 15 ngày mà nguyên nhân chính là do Thẩm phán tính toán thời hạn niêm yết không chính xác theo đúng quy định và hướng dẫn của TANDTC.

Bản án thứ hai: Ngày 21/03/2018, TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 232/2017/TLPT-DS ngày 06/12/2017 về việc “Kiện đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Th và bị đơn là ông Nguyễn Minh H. Do bản án dân sự sơ thẩm số 61/2017/DS-ST ngày 31/7/2017 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột bị ông H kháng cáo (ngày 14/10/2017).

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn và người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn cho rằng khi xét xử sơ thẩm, ông TR và ông P (là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) không được Toà án triệu tập tham gia phiên toà và Toà án cấp sơ thẩm thực hiện niêm yết VBTT tại nơi ở của ông H không đúng dẫn đến việc ông H không nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Bản án sơ thẩm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông

  1. Tại phiên toà, đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk trình bày quan điểm: Ông H đang ở địa chỉ đường Y, Thôn A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông H đang ở thôn B và tống đạt, niêm yết văn bản tố tụng tại thôn B là không đúng quy định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015. Đồng thời khi tiến hành niêm yết văn bản tố tụng Tòa án không thực hiện việc lập biên bản trong trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt và không đưa ông H vào tham gia tố tụng là vi phạm Điều 68, Điều 177 BLTTDS năm 2015. Do đó có thể thấy toà án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự.

Sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự, HĐXX nhận định việc tống đạt, niêm yết các văn bản của Tòa án thì cấp sơ thẩm đã tiến hành niêm yết nhưng không đúng theo quy định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015. Việc ông Nguyễn Minh H cho rằng ông không nhận được các văn bản của Tòa án cấp sơ thẩm là có cơ sở. Do đó HĐXX quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm số 61/2017/DS-ST ngày 31/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và chuyển hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Qua vụ án trên ta thấy, Toà án cấp sơ thẩm đã xác định không đúng địa chỉ nơi ở của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án, dẫn đến việc họ không nhận được các VBTT. Thêm nữa, việc niêm yết VBTT được tiến hành không đúng thủ tục, trình tự luật định bởi cán bộ thực hiện niêm yết không lập biên bản trong trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt (theo quy định tại Điều 177 BLTTDS năm 2015) là vi phạm thủ tục tố tụng. Trong trường hợp này, ông H vắng mặt tại nơi cư trú, không rõ thời điểm trở về thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành lập biên bản về việc không thực hiện được việc cấp, tống đạt, thông báo VBTT, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã/phường; đồng thời thực hiện thủ tục niêm yết công khai.

  • Về việc xác định nơi cư trú của đương sự

Có thể thấy rằng việc xác định đúng địa chỉ nơi cư trú của đương sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện thủ tục tống đạt văn bản tố tụng, nhằm đảm bảo cho đương sự có khả năng tiếp cận với thông tin của văn bản tố tụng cần tống đạt và là cơ sở để xác định tính hợp pháp, tính hiệu quả của hoạt động tống đạt. Trong thực tiễn xét xử hiện nay, việc xác định địa chỉ nơi cư trú của đương sự còn là một số khó khăn vướng mắc, biểu hiện cụ thể trong 2 vụ án dưới đây:

Vụ án thứ nhất: về “Yêu cầu cấp dưỡng” giữa nguyên đơn là ông Trần Thái D và bị đơn là ông Nguyễn Hữu P. Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn ông Trần Thái D xác định địa chỉ của bị đơn Nguyễn Hữu P ở tại số 21 Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội. Toà án sơ cấp thẩm đã tiến hành xác minh địa chỉ cư trú của bị đơn và được chính quyền địa phương xác nhận tại biên bản xác minh ngày 15/07/2015 với nội dung như sau: “ông Nguyễn Hữu P đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 8 Lĩnh Nam nhưng ở tại số 21 Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội. Hiện nay đương sự không có mặt tại địa phương, đi làm ăn xa ở Vũng Tàu, không có địa chỉ cụ thể”. Vì nguyên đơn không cung cấp thêm địa chỉ nào khác của bị đơn nên Toà án cấp sơ thẩm xác định nguyên đơn chưa đủ điều kiện khởi kiện và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Sau khi nguyên đơn có đơn kháng cáo, Toà án cấp phúc thẩm đã xem xét và cho rằng, trong trường hợp này nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện. Vậy thế nào thì được coi là “đã ghi đúng và đầy đủ địa chỉ nơi cư trú”? Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của HĐTP TANDTC thì: người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện cho Toà án theo đúng quy định của pháp luật tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó đó là địa chỉ của người bị kiện thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện.( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

Như vậy, trong vụ án này, tại thời điểm ông Trần Thái D nộp đơn khởi kiện, chính quyền địa phương đã xác nhận địa chỉ nơi ở của ông Nguyễn Hữu P (bị đơn) tại 21 Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội mà ông D đã cung cấp cho Toà án là đúng và được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện. Mặt khác, ông Nguyễn Hữu P thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú. Lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục tống đạt các thông báo và quyết định đưa ra vụ án xét xử để giải quyết vụ án theo trường hợp người bị kiện cố tình giấu địa chỉ chứ không được đình chỉ giải quyết vụ án. Theo đó, Toà án phải tiến hành thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP. Do đó Toà án cấp phúc thẩm đã huỷ quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án sơ thẩm.

Vụ án thứ hai:   về việc “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Đoàn Lệ H và bị đơn là anh Nguyễn Hoàng A. Tóm tắt nội dung vụ án như sau:

“Chị Đoàn Lệ H và anh Nguyễn Hoàng A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 06/09/1998 tại UBND phường Q, quận B, thành phố Hà Nội. Đến năm 2013, anh A bỏ nhà đi không có tin tức gì, không ai biết hiện anh đang ở đâu. Chị H đã có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự về việc tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với anh A. Ngày 29/12/2015, Tòa án nhân dân quận B đã ra Quyết định chấp nhận yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú của chị H đối với anh A. Sau khi ra Quyết định giải quyết việc dân sự nêu trên, Tòa án nhân dân quận B đã thực hiện đúng quy định tại Điều 385 BLTTDS năm 2015 về thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, nhưng anh H vẫn không trở về nhà và cũng không có tin tức gì. Ngày 10/9/2016, chị H có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh A và cùng ngày Tòa án nhân dân quận B thụ lý vụ án. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 179 BLTTDS năm 2015. Ngày 25/10/2016, Tòa án tiến hành xét xử đối với vụ án và tuyên chị H được ly hôn anh A. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi kiện đến khi xét xử, không có tin tức gì của anh A và không biết được anh A đang cư trú ở đâu”.

Tại thời điểm chị H làm đơn khởi kiện thì anh A không có mặt tại địa chỉ cư trú mà chị H đã cung cấp cho Tòa án; địa chỉ mà chị H cung cấp cho Tòa án là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của anh A, còn địa chỉ nơi ở hiện tại của anh A thì chị H không biết và không cung cấp được. Việc xác minh địa chỉ của anh A không được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận và chị H cũng không có căn cứ nào khác để chứng minh đó là địa chỉ của anh A. Theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của HĐTP TANDTC về Hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án thì đây là trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện vì chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Do đó việc Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của anh A là sai quy định. Hơn nữa, vì anh A không có mặt tại địa chỉ mà chị H cung cấp nên anh A không nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án; mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã niêm yết công khai và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, nhưng anh A vẫn không biết về việc khởi kiện của nguyên đơn và việc thụ lý giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Bởi vậy, không có căn cứ để cho rằng anh A cố tình giấu địa chỉ nên Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung là không đúng.

Theo quy định tại các Điều 64, 65, 66, 67 của Bộ luật dân sự năm 2015 về Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì chỉ quy định về việc quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú mà không quy định về việc Tòa án giải quyết cho ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn. Việc giải quyết cho ly hôn chỉ có thể được Tòa án giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 về tuyên bố một người mất tích. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng không có quy định nào về việc giải quyết cho ly hôn đối với người vắng mặt tại nơi cư trú mà chỉ có quy định đối với trường hợp tuyên bố mất tích, cụ thể khoản 2 điều 56 Luật này quy định: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”. Để ly hôn với người mất tích trước hết vợ hoặc chồng cần phải thực hiện thủ tục yêu cầu Toà án tuyên bố vợ hoặc chồng mất tích sau đó mới thực hiện thủ tục ly hôn. Như vậy, đối với vụ án này Tòa án giải quyết quan hệ hôn nhân giữa anh A và chị H là không có căn cứ pháp luật, mà cần hướng dẫn chị H thực hiện thủ tục giải quyết việc dân sự về tuyên bố anh A mất tích, sau đó mới có thể giải quyết về quan hệ hôn nhân.

Từ hai vụ án nói trên cho thấy trong các trường hợp nguyên đơn khởi kiện mà vì lý do nào đó không xác định được địa chỉ hiện tại của bị đơn. Cấp phúc thẩm cho rằng trong trường hợp bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng họ thường xuyên vắng mặt tại địa chỉ thường trú mà không thông báo cho người khởi kiện thì được xem như trường hợp họ cố tình giấu địa chỉ. Trường hợp này, Toà án cấp sơ thẩm cần tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng để tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

Trở lại với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, ta có thể nhận thấy: Bộ luật Tố tụng dân sự xác định tên, địa chỉ của người bị kiện là một trong những nội dung chính của đơn khởi kiện. Trong trường hợp nguyên đơn không ghi đúng tên, địa chỉ của người bị kiện thì Toà án yêu cầu họ phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ghi đúng và đầy đủ các thông tin được yêu cầu; nếu họ không thực hiện, Toà án không được thụ lý vụ án mà phải trả lại đơn khởi kiện cho họ. Nếu người khởi kiện không biết hoặc không ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì họ phải thực hiện việc tìm và xác minh địa chỉ của những người nói trên. Chỉ trong trường hợp người khởi kiện ghi đúng, đầy đủ địa chỉ của người bị kiện nhưng người bị kiện không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho người khởi kiện, cho Toà án, nhằm mục đích giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì được coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ và Toà án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 cũng đưa ra hướng dẫn về việc xác định thế nào là “ghi đầy đủ và đúng địa chỉ” tại khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết. Thực tiễn cho thấy có rất nhiều trường hợp người dân đăng ký hộ khẩu thường trú ở một nơi nhưng vì lý do học tập, công tác…mà họ có thể sinh sống ở một địa phương khác. Do đó, để có căn cứ cho việc thụ lý vụ án, kèm theo các giấy tờ, tài liệu và đơn khởi kiện, một số Toà án thường yêu cầu người khởi kiện cung cấp thêm Giấy xác nhận cư trú của người bị kiện do cơ quan Công an tại địa phương mà bị đơn có hộ khẩu thường trú, tạm trú hoặc đang sinh sống xác nhận. Điều này giúp cho việc thực hiện các thủ tục tố tụng được diễn ra một cách chặt chẽ và trình tự hơn.

Và có thể bạn sẽ cần xem:

Luận văn Lý luận Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

  • Về hoạt động tống đạt văn bản tố tụng dân sự cho đương sự ở nước ngoài

Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam được quy định tại khoản 1 Điều 469 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, việc xác định “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” và việc xác định việc phải ủy thác tư pháp trong một số trường hợp khá phức tạp và không phải vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nào Tòa án cũng phải tiến hành ủy thác tư pháp và ngược lại. Nhiều vụ việc dân sự khi Tòa án tiến hành thụ lý, giải quyết thì không phải là “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” và không phải tiến hành ủy thác tư pháp nhưng sau đó một hoặc nhiều đương sự ra nước ngoài công tác, học tập, lao động dẫn đến Tòa án phải tiến hành ủy thác tư pháp. Do đó, việc xác định “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” để xác định việc Tòa án có phải tiến hành việc ủy thác tư pháp hay không chỉ mang tính chất tương đối. Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà mình đang giải quyết để xác định xem có cần tiến hành hoạt động tố tụng ở nước ngoài hay không, từ đó, xác định việc có phải tiến hành việc ủy thác tư pháp ra nước ngoài hay không.

Theo thống kê tại Báo cáo công tác Tương trợ tư pháp của Chính phủ trình Quốc hội hàng năm, từ năm 2013 đến năm 2017, các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam đã gửi đi nước ngoài tổng cộng 15.485 yêu cầu UTTP, đã tiếp nhận 3921 yêu cầu TTTP của nước ngoài vào Việt Nam [5]. Trong đó năm 2017 đã tiếp nhận, xử lý 1.920 hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam gửi đi nước ngoài; 787 hồ sơ của cơ quan thẩm quyền nước ngoài gửi tới Việt Nam [8]. Trong đó, yêu cầu tống đạt giấy tờ, tài liệu, bản án chiếm đến hơn 80% các yêu cầu uỷ thác tư pháp. Từ số liệu thực tế trên đây, có thể thấy rằng số lượng yêu cầu uỷ thác tư pháp về dân sự là rất lớn. Sau nhiều năm thực hiện, với khối lượng lớn hàng năm các yêu cầu TTTP, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Toà án và cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trên cả nước đã có nhiều nỗ lực để thực hiện các quy định pháp luật trong nước cũng như các ĐƯQT về TTTP trong lĩnh vực dân sự. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại, hạn chế, cụ thể là:

  • Thứ nhất, thực tiễn cho thấy khi giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài có hoạt động uỷ thác tư pháp (tống đạt các văn bản tố tụng, lấy lời khai đương sự ở nước ngoài,…), việc thực hiện uỷ thác tư pháp chiếm rất nhiều thời gian, làm ảnh hưởng đến thời hạn chuẩn bị xét xử. Thêm vào đó, một số lượng hồ sơ UTTP gửi ra nước ngoài còn chưa đáp ứng yêu cầu (về biểu mẫu, ngôn ngữ …) nên bị trả lại để bổ sung, hoàn thiện khiến thời gian thực hiện UTTP bị kéo dài.
  • Thứ hai, một số cơ quan thực hiện hồ sơ ủy thác còn chưa nắm rõ các kênh thực hiện (theo Công ước Tống đạt hay theo kênh Hiệp định song phương hoặc áp dụng nguyên tắc có đi có lại theo kênh ngoại giao) để lựa chọn phương án phù hợp.

Những hạn chế, tồn tại này làm giảm hiệu quả thực hiện TTTP, ảnh hưởng đến việc giải quyết các vụ việc dân sự, thi hành án có yếu tố nước ngoài.( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

3.2.    Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

Trên cơ sở các vướng mắc, bất cập đã phân tích ở trên, người viết xin đưa ra một số đề xuất, kiến nghị giải quyết như sau:

3.2.1.    Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

  • Đối với trường hợp cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự cho cá nhân thông qua người thân thích của họ

Để hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục tống đạt trong trường hợp người được tống đạt vắng mặt và toà án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng thông qua người thân thích của họ, pháp luật tố tụng dân sự cần có quy định cụ thể về “người thân thích”. Theo đó, người thân thích của đương sự, ngoài vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con nuôi, con đẻ; ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột, chú bác ruột, cậu cô ruột, dì ruột, cháu ruột thì còn bao gồm cha mẹ chồng, cha mẹ vợ, con dâu, con rể. Nếu những người này có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và ở cùng nơi cư trú của đương sự thì họ có thể nhận thay văn bản tố tụng cần được tống đạt và cam kết chuyển giao lại cho người được tống đạt.

  • ·   Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng trên phương tiện thông tin đại chúng

Thứ nhất, cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết đối với trường hợp được xem là “có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho người được cấp, tống đạt, thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt, thông báo” để việc áp dụng được thống nhất.

Thứ hai, đối với việc đăng thông báo trên Cổng thông tin điện tử cần có hướng dẫn cụ thể. Theo tác giả, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên Cổng thông tin điện tử của TANDTC để đảm bảo việc thông tin đạt được hiệu quả tốt nhất.

Thứ ba, việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nên được thực hiện một lần theo trình tự thủ tục BLTTDS quy định và cần đảm bảo các nội dung như sau: thông báo cho người cần được thông tin biết về việc khởi kiện, nội dung khởi kiện của nguyên đơn, toà án thụ lý vụ việc, dự kiến thời gian hoà giải, thời gian mở phiên toà và ấn định một khoảng thời gian phù hợp để người được thông báo liên hệ với toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Điều này nhằm hạn chế việc người yêu cầu thông báo phải gánh chịu một chi phí quá lớn cho việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và cũng đảm bảo được thời gian giải quyết vụ việc dân sự, tránh tình trạng án quá hạn kéo dài.

Thứ tư, đối với nghĩa vụ phải chịu lệ phí trong trường hợp Toà án xác định “có căn cứ xác định việc niêm yết công khai không đảm bảo cho người được cấp, tống đạt, thông báo nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt, thông báo” cần được quy định rõ. Theo quan điểm của người viết, đa số người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm đều là đối với người bị kiện và đều không thực hiện việc khai báo tạm trú, tạm vắng khi đi khỏi địa phương, một số nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ. Do đó cần xem xét buộc họ phải chịu lệ phí thông báo như đối với án phí trong trường hợp yêu cầu của người khởi kiện được Toà án chấp thuận. Ngoài ra pháp luật tố tụng dân sự cần bổ sung quy định xác định trách nhiệm chịu chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong trường hợp Toà án có trách nhiệm giải quyết vụ việc dân sự là cơ quan chịu chi phí cho việc đăng tải thông tin ở các báo, đài phát thanh hoặc đài truyền hình trung ương theo quy định. Đồng thời cần có hướng dẫn bổ sung thủ tục quyết toán các khoản chi phí này cho Toà án nhân dân các địa phương.

  • ·        Về thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng qua đường bưu điện

Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Thông tin và truyền thông cần sớm ban hành văn bản liên tịch hướng dẫn việc tống đạt văn bản tố tụng qua đường bưu điện để đảm bảo giá trị pháp lý của văn bản tố tụng do Tòa án ban hành. Theo đó, cần hướng dẫn và thống nhất về một số vấn đề như: nội dung biên bản chuyển giao văn bản tố tụng giữa Toà án và bưu điện (có số hiệu, ngày tháng năm ban hành văn bản cũng như thời gian triệu tập, mời đương sự); đề ra quy chế phối hợp để nâng cao ý thứ trách nhiệm của nhân viên bưu điện trong quá trình chuyển giao văn bản tố tụng (ví dụ: trách nhiệm về việc thông tin cho cơ quan ban hành văn bản tố tụng biết về việc văn bản không được chuyển giao trực tiếp cho người nhận mà có thể được chuyển giao cho tổ trưởng tổ dân phố hoặc người khác…). Đồng thời, hướng dẫn rõ trường hợp tống đạt trực tiếp cho người được tống đạt, qua người thân, chính quyền địa phương cũng như thể hiện đầy đủ các thông tin trong trường hợp không tống đạt được. Mục đích của việc này là nhằm tạo điều kiện cho Toà án chủ động các hoạt động tống đạt tiếp theo khi đương sự không có mặt tại Toà án theo yêu cầu.( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

3.2.2.    Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự

  • Về hoạt động phối hợp tống đạt văn bản giữa cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan chức năng khác

Từ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về người thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy: ngoài việc trực tiếp thực hiện hoạt động tống đạt văn bản, Toà án có thể phối hợp với UBND cấp xã nơi cư trú của người tham gia tố tụng dân sự hoặc cơ quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng làm việc để chuyển giao văn bản tố tụng cho người này trong những trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể về trách nhiệm, cơ chế phối hợp, quy trình và chế tài đủ sức ràng buộc để các cơ quan này phải phối hợp thực hiện khi Toà án có yêu cầu. Đồng thời, theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND các cấp thì hoạt động tống đạt văn bản không được xem thuộc chức năng của UBND cấp xã, và ở một khía cạnh nhất định, hoạt động này có phần là gia tăng áp lực công việc đối với lực lượng cán bộ tư pháp của cấp xã, phường, mặc dù nó chỉ được xem là hoạt động phối hợp giữa UBND và cơ quan tiến hành tố tụng. Việc quy định thủ tục tống đạt trong nhiều trường hợp phải có con dấu xác nhận của UBND xã phường thị trấn nơi cư trú của đương sự khiến cho việc tống đạt hợp lệ phải trải qua nhiều thủ tục, kéo dài gây mất thời gian, công sức của các bên. Thực tiễn quá trình thực hiện hoạt động tống đạt của cán bộ Toà án cho thấy, có đôi lúc các UBND và cơ quan Công an xã phường ở địa phương cho rằng việc thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng là nghĩa vụ, trách nhiệm của Toà án, họ không phải là cơ quan có chức năng giao văn bản thay cho Toà án nên thái độ hợp tác thiếu tích cực, đồng thời khi cần sự xác nhận của UBND trong các trường hợp như đương sự từ chối nhận văn bản tố tụng mất rất nhiều thời gian vì chính quyền cấp xã hẹn cán bộ Toà án đi lại rất nhiều lần mới có thể nhận được biên bản xác nhận có con dấu của chính quyền địa phương. Điều này đã phần nào làm hạn chế hiệu quả của việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự.

Vì vậy, để hoạt động tống đạt văn bản tố tụng diễn ra thông suốt, thuận lợi đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, TANDTC cần phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện hoạt động tống đạt văn bản theo quy định của BLTTDS và về lâu dài cần quy định bổ sung thêm quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, chính quyền địa phương trong việc phối hợp thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp khi cơ quan tiến hành tố tụng có yêu cầu. Theo đó, cần quy định cụ thể về trách nhiệm, cơ chế phối hợp, quy trình và chế tài đủ sức ràng buộc để các cơ quan này phải phối hợp thực hiện khi cơ quan tiến hành tố tụng có yêu cầu thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự. Đồng thời cũng cần xem xét hỗ trợ một phần chi phí bồi dưỡng cho cán bộ thực hiện công tác tống đạt văn bản tố tụng nhằm nâng cao chất lượng tống đạt.

·        Về tống đạt VBTTDS cho đương sự ở nước ngoài

Cần tiếp tục đẩy mạnh việc tham gia các thiết chế đa phương trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về dân sự, tích cực tham gia quá trình đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định tương trợ tư pháp. Tăng cường vai trò tránh nhiệm của các cơ quan trung ương và sự phối hợp giữa cơ quan trung ương và địa phương trong việc triển khai thực hiện pháp luật về tương trợ tư pháp với mục tiêu giải quyết hiệu quả, kịp thời các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức Việt Nam và nâng cao vị thế của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Trong trường hợp cần thiết, có thể xem xét xây dựng một chương riêng của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về trình tự, thủ tục cụ thể để thực hiện hoạt động uỷ thác tư pháp ra nước ngoài và cách thức xử lý những trường hợp uỷ thác không có kết quả (trong đó có hoạt động uỷ thác tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài). Có như vậy mới đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của hoạt động uỷ thác tư pháp trong lĩnh vực dân sự trên thực tế.

Hiện nay thời gian hoàn thành một hồ sơ yêu cầu uỷ thác tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài kéo dài trung bình từ 4 đến 6 tháng, do đó quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn chuẩn bị xét xử là không phù hợp khi áp dụng cho các trường hợp này. Pháp luật cần bổ sung thêm quy định riêng về thời hạn giải quyết các vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài theo hướng tăng thời hạn chuẩn bị xét xử để đảm bảo tính hợp lý không làm gia tăng áp lực về thời gian đối với các Toà án giải quyết những vụ việc này.

·        Đa dạng hoá phương thức tống đạt dựa trên tiến bộ khoa học công nghệ

Từ thực tiễn kinh nghiệm quốc tế cho thấy, pháp luật Việt Nam cần nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm và đa dạng hoá các phương thức tống đạt phù hợp với sự phát triển của xã hội và của khoa học công nghệ. Những năm gần đây, việc sử dụng truyền thông xã hội ngày càng tăng nhanh, vai trò của nó trong xã hội hiện đại có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và có tiềm năng để trở thành một công cụ hữu ích cho hệ thống pháp luật bởi tính kết nối sâu rộng và dễ sử dụng. Theo đó, các nhà làm luật có thể xem xét và xây dựng quy định cho phép thực hiện tống đạt, uỷ thác tư pháp cho bị đơn ở trong nước và ở nước ngoài bằng phương tiện điện tử fax, e-mail hoặc thông qua mạng xã hội trong trường hợp việc thực hiện các phương pháp khác không đem lại hiệu quả hay không thể thực hiện được. Đối với mạng xã hội Facebook, phương thức này có đầy đủ các tính năng như kết nối người dùng khác thông qua tin nhắn riêng, tin nhắn cũng có khả năng đính kèm tệp hay file tài liệu trong thư để VBTT có thể đính kèm và gửi trong tin nhắn.( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

Ở một số quốc gia cho phép sử dụng phương pháp tống đạt này (như Australia), nguyên đơn phải cung cấp đầy đủ lượng thông tin trong hồ sơ cá nhân để có thể xác minh tài khoản của mình chẳng hạn như giáo dục, nghề nghiệp, sở thích, bạn bè, tuổi, quê hương… Facebook cũng thiết lập các trạng thái, thông báo được coi là bằng chứng cho việc người dùng có sử dụng trang web hay không. Nếu tần suất sử dụng không thể hiển thị hoặc tài khoản của người dùng đã được cài đặt riêng tư thì việc tống đạt sẽ không được phép thực hiện. Tuy nhiên trong thời gian gần đây có không ít những vụ rò rỉ thông tin cá nhân, người dùng Facebook bị khai thác và sử dụng thông tin cá nhân một cách trái phép. Nguyên nhân chủ yếu là do người dùng thường chia sẻ thông tin ở chế độ công khai thay vì chỉ hạn chế ở chế độ riêng tư hoặc chỉ dành cho bạn bè. Mặt khác, nhiều người thường cài đặt các ứng dụng trên Facebook mà không quá chú ý đến chức năng và quyền hạn của các ứng dụng này có thể khai thác thông tin mà họ chia sẻ trên mạng xã hội. Trước tình trạng trên, Facebook đã thay đổi hàng loạt các chính sách để bảo vệ thông tin người dùng [59]. Bên cạnh những nỗ lực từ phía nhà mạng, bản thân người dùng cũng cần có những giải pháp tự bảo vệ thông tin của mình trên mạng xã hội để trong một tương lai không xa, nhờ những tiến bộ của khoa học công nghệ có thể ứng dụng thực hiện tống đạt thông qua mạng xã hội một cách nhanh chóng và hiệu quả.

Việc thực hiện tống đạt bằng phương pháp này đòi hỏi pháp luật cần quy định các yếu tố mang tính bắt buộc để xác thực thông tin và danh tính của người dùng đồng thời phải có hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (trong trường hợp tống đạt cho bị đơn ở nước ngoài).

  • ·        Về việc xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự và hành vi không làm đúng trách nhiệm trong hoạt động tống đạt văn bản tố tụng.

Một trong những nguyên nhân khiến hoạt động tống đạt văn bản tố tụng của toà án còn phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc chính là việc chưa có những quy định thật sự hiệu quả về biện pháp xử lý đối với các đương sự có hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự và người không thực thi đúng trách nhiệm trong hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Mặc dù BLTTDS năm 2015 dành hẳn một chương (chương XL) để quy định việc xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng nhưng quy định về việc xử lý hành vi cản trở việc cấp, giao, nhận, tống đạt, thông báo VBTT của Toà án (Điều 493) cũng chỉ được quy định một cách chung chung, chưa cụ thể. Điều luật chỉ dừng lại ở việc đưa ra các trường hợp bị coi là có hành vi gây cản trở hoạt động cấp, tống đạt, thông báo VBTT mà không quy định các biện pháp xử lý hoặc chế tài đối với các hành vi vi phạm đó. Trong thực tế, rất hiếm trường hợp những hành vi cản trở hoạt động tống đạt văn bản tố tụng của đương sự hoặc hành vi không thực hiện đúng trách nhiệm tống đạt của người có thẩm quyền bị xử lý. Muốn khắc phục tình trạng này, theo tác giả pháp luật cần quy định:

  • Các căn cứ cụ thể để xác định hành vi thế nào bị coi là cản trở, không làm đúng trách nhiệm trong việc cấp, giao, nhận, tống đạt, thông báo
  • Xác định cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý các hành vi vi phạm nói trên.
  • Đưa ra biện pháp, chế tài xử lý (các biện pháp xử lý hành chính/hình sự) đối với hành vi không thực hiện đúng trách nhiệm trong hoạt động tống đạt văn bản tố tụng; hành vi cản trở tố tụng dân sự của người tham gia tố tụng.

Ở đây, yêu cầu được đặt ra là cần đảm bảo các tiêu chí rõ ràng, cụ thể đối với các căn cứ xác định hành vi vi phạm và áp dụng chế tài đủ tính chất răn đe đối với những hành vi đó để đảm bảo thực thi quyền lực nhà nước và nâng cao trách nhiệm của người dân cũng như của các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tống đạt VBTTDS. ( Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng )

Kết luận chương 3

 Các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động tống đạt văn bản tố tụng dân sự ở nước ta hiện nay ngày càng được hoàn thiện theo hướng đồng bộ, thống nhất, minh bạch và khả thi,với sự kế thừa của các quy định pháp luật trước đó và sự dày công nghiên cứu của cá nhà lập pháp. Tuy nhiên, xuất

phát từ đặc trưng của nên kinh tế nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, hệ thống pháp luật vẫn còn trong quá trình hoàn thiện nên không thể tránh khỏi nhiều vấn đề bất cập, vướng mắc, chưa hợp lý, khiến cho hoạt động tống đạt văn bản tố tụng gặp phải nhiều khó khăn khi thực hiện trên thực tế, làm ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian giải quyết các tranh chấp dân sự tại toà án.

KẾT LUẬN Luận văn Giải pháp Cấp Tống đại thông báo văn bản tố tụng

Có thể nói, trong hoạt động tố tụng dân sự việc chuyển giao và nhận thông tin của các văn bản tố tụng chiếm một vai trò rất quan trọng. Cấp, tống đạt, thông báo VBTT là hoạt động gắn liền với các việc tiến hành tố tụng của Toà án trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của thủ tục tố tụng này, các nhà lập pháp đã xây dựng tương đối hoàn chỉnh bộ khung pháp lý đối với hoạt động tống đạt văn bản tố tụng, giúp cho hoạt động tống đạt ngày càng đi vào quy củ, khoa học, dân chủ và minh bạch hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của pháp luật vẫn còn tồn tại không ít khó khăn vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thực hiện hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Những khó khăn, vướng mắc này cần được nhanh chóng nhận diện và khắc phục để tạo môi trường công bằng, bình đẳng, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho tất cả những người tham gia tố tụng, đồng thời cũng nâng cao vị thế của các cơ quan tiến hành tố tụng, hướng đến mục tiêu thể chế hoá Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của bộ chính trị về cải cách tư pháp vào các quy định cảu pháp luật tố tụng dân sự.

Với đề tài “Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản theo BLTTDS năm 2015”, tác giả đã cố gắng khái quái một cách cơ bản cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tống đạt văn bản tố tụng dân sự, phân tích thực trạng áp dụng và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tống đạt văn bản tố tụng. Những giải pháp này có thể chưa thật sự toàn diện, chưa giải quyết được toàn bộ những vướng mắc phát sinh trong hoạt động tống đạt văn bản tố tụng, nhưng tác giả hy vọng có thể góp phần giải quyết những vấn đề bất cập chủ yếu, nổi bật của hoạt động tống đạt văn bản trong quá trình tố tụng tại Toà án; từ đó tạo nên một hệ thống pháp luật về dân sự tố tụng chặt chẽ, đồng bộ và khả thi, thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội của nước ta hiện nay.

Xem phần chương 2 tại:

Luận văn Quy định Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993